Ký Linh
Chương 36
Lần xuống thăm dò hang thứ hai, Ký Linh dặn dò Bạch Lưu Song nhiều hơn. Dị Bì đã bịt lối ra khỏi hang bằng yêu pháp để bắt cá trong chậu, địch ở trong tối, ta ở ngoài sáng, phải đề phòng.
Bạch Lưu Song biết không được sơ suất nên kiên nhẫn nghe Ký Linh dông dài xong mới biến thành chùm sáng tím bay đi.
Một canh giờ sau, nàng quay về an toàn.
Lần này, nàng đã cẩn thận tìm tòi mọi góc, chỉ thiếu điều không cuốc từng tấc đất lên xem nhưng vẫn không thu hoạch được gì, không có dây thừng, cũng không có lối đi nào. Điều duy nhất đáng mừng là không gặp phải Dị Bì, hay nói cách khác, Dị Bì vẫn không biết tung tích.
Tuy nhiên, dưới góc nhìn của Bạch Lưu Song thì chẳng thà cứ để nàng gặp Dị Bì cho xong, liều mạng đánh một trận còn đỡ hơn là chịu giày vò như hiện tại.
“Dây thừng đã đứt cũng không có à? Hoặc là đã phân hủy, có khi cô không để ý?” Đàm Vân Sơn vẫn chưa chịu từ bỏ.
Bạch Lưu Song lắc đầu, phủi phủi bụi đất bám khắp mặt và cổ: “Tôi sắp cày cả mũi xuống đất rồi đấy, thực sự là chỉ có đất với đá mà thôi.”
Ký Linh ngồi xổm bên bờ vực nhìn xuống vùng đen ngòm bên dưới, lần đầu tiên cảm thấy bất lực, thở dài, ngoảnh mặt lại cười chua chát nhìn Đàm Vân Sơn đứng cách đó mấy bước: “Đừng làm khó cô ấy nữa, có lẽ đúng là trượt chân ngã xuống thật.”
Đàm Vân Sơn nhìn nàng một hồi rồi bỗng gọi: “Lại đây.”
Ký Linh ngẩn ra không nhúc nhích.
Đàm Vân Sơn chìa bàn tay không cột khăn lụa ra, vừa gọi vừa nhắc lại: “Lại đây.”
Ký Linh chán nản, lòng thầm nhủ gọi vậy là gọi cún hay sao nhưng cơ thể thì vẫn rất ngoan ngoãn nghe lời đứng dậy đi lại chỗ Đàm Vân Sơn. Nàng hất mặt lên, quyết không chịu thất thế: “Sao?”
Đàm Vân Sơn mỉm cười hết sức hài lòng: “Ngồi gần vách đá vậy làm gì, đâu phải nhìn xuống đấy nhiều thì Dị Bì sẽ trồi lên đâu. Đứng đây an toàn hơn nhiều.”
Ký Linh ngớ ra, thấy lòng mình là lạ, vừa ấm áp vừa dở khóc dở cười: “Tôi có phải trẻ ranh ba tuổi đâu, đâu đến mức bị gió thổi xuống đấy.”
“Lỡ như người bên dưới cô quạnh quá muốn kéo nàng xuống chơi cùng thì sao.” Đàm Vân Sơn thở dài tỏ cái vẻ “cô nương vẫn còn ngây thơ lắm”, “Cẩn tắc vô áy náy.”
“…” Ký Linh biết vì sao lúc nào mình cũng muốn gõ chàng rồi, bởi vì căn bản không thể nói lại nổi, phải động thủ! Tuy nhiên, trước mắt rõ ràng không phải thời điểm thích hợp để “nồi da nấu thịt”, đành nghiến răng hỏi: “Vậy xin hỏi cẩn tắc thì tiếp theo chúng ta làm gì?”
Vốn là muốn hỏi khó đối phương, không ngờ chàng lại đáp ngay: “Đứng nguyên đây đừng di chuyển, tôi đi một lát sẽ quay lại ngay.”
Nói rồi, chàng xách dao đi ngược trở ra phía ngoài hang, đi được mấy bước còn không quên quay lại dặn Phùng Bất Cơ: “Phùng huynh giúp nhìn một chút nhé, đừng để nàng tới gần vách đá ngó đầu xuống xem…”
Tiếng nói văng vẳng tắt lịm, bóng chàng cũng đã biến mất trên lối đi chật hẹp tối tăm.
Phùng Bất Cơ nhìn Ký Linh đứng cách vách núi dăm bước chân rồi lại nhìn bản thân từ nãy tới giờ đều đứng sát bên miệng vực mà thấy lòng bỗng chua chát. Song, đối diện với sự tín nhiệm của huynh đệ, huynh ta vẫn phải rưng rưng hứa hẹn: “Đàm lão đệ, cứ yên tâm giao cho tôi…”
Chữ “tôi” vừa ra khỏi miệng, trong lối vào hang bỗng vang lên mấy tiếng cạch cạch, thỉnh thoảng còn có tia lửa lóe lên, mặc dù nhìn không được rõ nhưng có thể đoán ra là do dao chém lên vách hang đá.
Ký Linh và Phùng Bất Cơ nhìn nhau, không hiểu Đàm Vân Sơn đang làm trò gì, chắc không phải là không tìm được Dị Bì nên chém dao lên vách hang cho đỡ bực chứ?
Chẳng mấy chốc, tiếng dao chém lên vách tường nhỏ dần, tất nhiên là do Đàm Vân Sơn đã đi ngày càng xa hơn. Dựa theo tốc độ này, chẳng bao lâu nữa sẽ di chuyển ra tới cửa hang.
Song, Đàm Vân Sơn chém được giữa chừng thì ngừng lại. Bởi vì cuối cùng dao cũng chém phải chỗ có đất. Gần nửa thân dao cắm ngập vào vách, không bị phản lực dội ngược lại cổ tay như khi chém vào đá.
“Ký Linh, Phùng Bất Cơ, Bạch Lưu Song, lại giúp với…”
Lúc đồng đội cần che chở thì Đàm nhị thiếu gia che chở, tới lúc cần dùng tới sức lao động thì chàng cũng rất nghiêm túc nhờ cậy.
Ba tên đội hữu nghe vậy tức tốc phi tới. Chuông Tịnh Yêu, kiếm gỗ đào, móng vuốt sói nhất tề xông trận, cộng thêm cả dao của Đàm Vân Sơn, đào ra một cái hang to trên vách tường.
Nói là đào ra một cái hang cũng không được chuẩn xác bởi vì ở đó vốn là một cái cửa hang nhưng bị người ta lấy đất trét lại, đất bản địa của Hoàng Châu có độ kết dính cao, lấy đắp tường thì chẳng khác gì một khối đá, song nếu dùng dao chém thì sẽ thấy mềm. Hơn nữa, người đắp bức tường này có vẻ cũng không định bịt chết cửa hang, tường đắp không dày, dù chỉ đào một mình thì cũng không mất nhiều thời gian.
Tuy nhiên, khả năng ngụy trang của bức tường này lại rất mạnh… Trong hang động tối tăm, đất trộn với vôi sống trông chẳng khác gì vách đá của hang, dù có cầm đuốc soi cũng khó lòng phân biệt nổi.
“Sao biết ở đây có đường?” Bạch Lưu Song nghĩ mãi không hiểu, tâm trạng khá là phức tạp, “Biết có đường mà còn bắt tôi chạy lung tung ở dưới đó!”
Không đợi Đàm Vân Sơn trả lời, Ký Linh đã giữ vai nàng ấy lại: “Chính bởi cô vất vả ở dưới đấy nên huynh ấy mới hoàn toàn hết hy vọng sau đó đổi suy đoán theo hướng khác.”
Bạch Lưu Song nửa tin nửa ngờ, nheo mắt nhìn Đàm Vân Sơn.
Đàm Vân Sơn cười vô tội: “Nói đoán còn là dễ nghe, thực ra là làm bừa thôi. Tôi cho là một chỗ rộng thế này chắc không chỉ có mình bờ vực. Với cả mấy bộ xương bên dưới nằm rải rác chứ không dồn một chỗ, nếu nói là trượt chân ngã xuống vực thì quá gượng ép.”
Bạch Lưu Song nhíu mày: “Nói tới nói lui toàn là tự đoán, nếu đoán sai thì sao?”
Đàm Vân Sơn thở dài: “Vậy thì đành phải ra tay với bức tường yêu bịt cửa hang. Có bắt được Dị Bì hay không cũng chẳng sao nhưng không thể bị nhốt chết ở đây được.”
Bạch Lưu Song nghĩ tới bức tường yêu làm phép màu tím đen phá mãi không được kia, liếc nhìn chàng không lấy gì làm tin tưởng: “Nếu phá được thì nãy đã phá rồi.”
Đàm Vân Sơn hờ hững nhìn lại, đôi mắt ánh lên sự tự tin: “Vừa rồi không phá được không có nghĩa là mãi mãi không phá được. Trên đời này không có việc nào là kín kẽ không chỗ hở, chỉ phải xem xem là có chịu bỏ thời gian công sức để xem xét hay không mà thôi.”
Bạch Lưu Song bình tĩnh quan sát chàng một hồi rồi lại nghĩ tới những vấp ngã của bản thân, cuối cùng tin.
Nếu “quỷ kế đa đoan” là một phép tu hành thì, nàng nghĩ, Đàm Vân Sơn không cần phải bắt yêu thú làm gì nữa bởi đã đủ giỏi để thăng tiên luôn rồi. Hơn nữa, điểm mạnh nhất của người này là không biết thế nào là “hết cách”, thế nào là “tuyệt cảnh”, dẫn tới cũng rất hiếm khi sa vào những cảm xúc tiêu cực như “thất bại”, càng khỏi nói tới “cam chịu”. Chiêu một không được thì nghĩ chiêu hai, nhiều chiêu đều không được thì lùi lại tự bảo vệ mình. Tóm lại luôn có cách để bản thân thấy dễ chịu. Theo một nghĩa nào đó thì người như thế quả thực vô địch.
“Đây là gì?” Mọi người đi vào trong chiếc hang mới đào ra, Phùng Bất Cơ đi sau cùng phát hiện có thứ gì đó hơi vàng vàng dưới chân. Huynh ta tò mò cúi xuống bới đất ra, thì ra là một lá bùa phép!
Ba đồng đội lũ lượt quay đầu lại xem, không khỏi kinh ngạc khi chứng kiến huynh ta nhặt lá bùa đứng dậy.
Chưa ai kịp hỏi gì, lá bùa vùi dưới đất vốn lành lặn sạch sẽ tới độ không giống như được chôn trong tường đất bỗng bốc cháy. Phùng Bất Cơ giật mình thả tay ra, lá bùa đang cháy rơi xuống rồi tắt ngúm, chỉ còn để lại một nhúm tro tàn.
Đàm Vân Sơn không hiểu nhưng Ký Linh hiểu.
Người phàm bắt yêu có các phái khác nhau. Như nàng và Phùng Bất Cơ là theo phái phổ biến nhất “pháp khí là chính, võ nghệ là phụ”. Cách này dù đơn giản sơ sài nhưng dễ hiểu dễ học, dù là một thanh kiếm gỗ đào tự chế như của Phùng Bất Cơ cũng có thể đại sát tứ phương. Ngoài cách dễ học thì còn có cách khó học, có cách đơn giản thì cũng có cách phức tạp, ví dụ như “thuật bùa chú”.
Nàng và Phùng Bất Cơ đã từng vẽ “trấn yêu phù”, nếu phân loại một cách nghiêm ngặt thì đấy cũng được coi là “thuật bùa chú” nhưng những “thuật bùa chú” như vậy thì nhan nhản trên giang hồ. “Thuật bùa chú” chân chính uyên thâm bác học chỉ bí mật lưu truyền trong một nhóm thiểu số người. Điều này cũng làm cho những người bắt yêu dùng thuật bùa chú trở thành nhánh đặc biệt nhất trên giang hồ, dù số lượng không đông đảo nhưng hễ đã ra tay thì nhất định làm người ta phải tò mò vây xem tìm tòi nghiên cứu.
“Giờ vẫn còn người dùng thuật bùa chú à?” Bạch Lưu Song cũng biết thứ này nhưng lần gần nhất thấy thợ bắt yêu dùng thuật bùa chú ở Bạch Quỷ Sơn phải cỡ trăm năm trước. Nàng ta cứ nghĩ thuật này ngoại trừ trấn yêu phù thì những thứ còn lại đều đã thất truyền.
“Có,” Ký Linh đáp ngắn gọn, “chẳng qua rất hiếm.”
Phùng Bất Cơ chỉ bận tâm suy nghĩ một chuyện: “Có thợ bắt yêu dùng thuật bùa chú từng tới đây và còn xây nên bức tường này.”
Đàm Vân Sơn nghe đến đây thì đã hiểu. Chàng không biết thuật bùa chú là gì nhưng qua tên gọi và dăm ba câu các đội hữu trao đổi với nhau thì cũng đã hiểu được đại khái là một cách bắt yêu, điều chàng quan tâm là: “Lá bùa này chôn trong tường nhằm tác dụng gì?”
Phùng Bất Cơ nói: “Phòng yêu. Bùa chôn trong tường không ảnh hưởng gì tới con người nhưng yêu thì không thể tới gần, càng không thể xô đổ.”
“Chẳng lẽ tường này là để ngăn cản Dị Bị?” Bạch Lưu Song nghĩ gì thường nói ngay chứ không cân nhắc kỹ, nói xong thấy không đúng lại bổ sung, “Không đúng, Dị Bì muốn ra thì bay thẳng lên chỗ vách đá là ra, có phải đồ ngu đâu mà cứ nhất định phải tìm đường.”
Ba cặp mắt đang dò đường lập tức nhìn lại.
Bạch Lưu Song: “… Ý tôi là yêu thú, không phải nói mấy người!”
Chuyện không hiểu có cố suy nghĩ cũng không thể ra được, hơn nữa họ đã bị kẹt trong hang này một thời gian dài, trước mắt đây là con đường duy nhất, dù vẫn còn điểm khó hiểu nhưng chỉ còn cách là xông tới.
Gió thổi từng cơn lạnh thấu xương.
Bộ tứ dò dẫm di chuyển trong chiếc hang mới, mặc dù lối đi gập ghềnh nhưng có thể cảm nhận rõ là đang đi xuống.
Trong hang rất yên lặng, đến tiếng hít thở cũng nghe rõ ràng. Cuối cùng, Phùng Bất Cơ không chịu nổi bắt đầu tán gẫu nhắc lại chuyện “bức tường”: “Chúng ta không phải thợ bắt yêu đầu tiên xông vào đây, chí ít là trước chúng ta còn có một người biết dùng bùa chú, không biết người đó là đi nhầm hay là cũng cố ý tới đây tìm Dị Bì giống chúng ta.”
Không ai tiếp chuyện huynh ta.
Bạch Lưu Song đã biến thành sói đang dè dặt đánh hơi, Ký Linh hết sức nghiêm túc cảnh giác tiền phương, Đàm Vân Sơn thì đang bận suy nghĩ đủ mọi chuyện xảy ra kể từ lúc vào hang.
Mạng nhện ở cửa hang, bức tường màu tím đen, xương cốt dưới vực, bức tường chôn lá bùa, cửa hang bị bịt, lối rẽ bị thợ bắt yêu giấu lại thêm Dị Bì lúc nào cũng như kè kè theo sát mà lại không tìm thấy tung tích… Chuyện này cũng giống như lối đi đầy ổ gà ổ voi này vậy, hết cái này tới cái khác, không biết đâu là tận cùng.
Phùng Bất Cơ bĩu môi, không nói gì nữa, dù sao vừa rồi cũng chẳng ai nghe, chẳng có gì phải ngượng.
Ba người một sói cứ thế tiếp tục lần mò đi thẳng xuống, đi đến mức sắp gãy chân tới nơi thì hết đường. Cuối đường lại là một bức tường đất. Mọi người hợp sức lại đào, quả nhiên trong tường này cũng có một tấm bùa.
Dựa theo thời gian đi và độ dốc của lối đi để suy tính, mọi người đều cho là kiểu gì cũng đã xuống tới đáy vực rồi, nào ngờ xô đổ bức tường đất xong, đập vào mắt họ vẫn là một bờ vực làm cả đám suýt thì tuyệt vọng. May mà lại gần vách đá nhìn xuống thì thấy chỗ này chỉ cao chừng ba tầng lầu, nhìn chếch xuống đã có thể thấy rõ toàn bộ trận pháp vĩ đại và bốn cây cột cái đứng cái nằm.
“Chẳng trách sói trắng tìm ở dưới đó mãi mà không tìm được đường. Chỗ này cao như vậy, làm sao mà thấy!” Phùng Bất Cơ cảm thán, “Lại còn bịt đất cả hai đầu. Tên đó không phải ăn no rảnh mỡ chứ, nghĩ đủ cách giấu lối đi này đi để được gì? Có ngăn được yêu đâu!”
“Nhưng có thể ngăn được người.” Đàm Vân Sơn cuối cùng cũng gỡ rối được vài điều giữa một mớ bòng bong, quay qua hỏi hai đồng đội, “Đó là trận pháp trấn yêu à?”
Ký Linh mím chặt môi nhìn chằm chằm trận pháp bên dưới. Trước lúc này, không cần nhìn nàng vẫn có thể nói ngay rằng mình không biết mà không lăn tăn gì. Bởi vì căn bản sư phụ chưa từng dạy cho nàng về trận pháp cũng như chưa từng nói gì về thần tiên và Cửu Thiên Tiên Giới vậy. Ngay cả trấn yêu phù cũng là nàng học được từ những người tu hành khác sau khi xuống núi. Song, lúc này đây, khi tận mắt nhìn thấy đàn làm phép này, nàng lại không thể nói chắc như đinh đóng cột được vì nàng thực sự có cảm giác mình đã từng gặp thứ gì đó tương tự nhưng gặp ở đâu, vào lúc nào, thứ ấy rốt cuộc là thứ gì thì hoàn toàn mơ hồ, thậm chí ngay cả ý thức “mình đã từng nhìn thấy nó” này cũng như miếng băng mỏng khi nhìn dưới ánh mặt trời vậy, có mà dường như lại không có.
Đàm Vân Sơn cho sự im lặng của nàng nghĩa là “không chắc” bèn chuyển sang nhìn Phùng Bất Cơ. Phùng Bất Cơ không phụ sự trông đợi, sau một hồi trầm ngâm thì đáp: “Đúng là trận pháp trấn yêu…”
Đàm Vân Sơn lặng lẽ nhíu mày, chàng cảm giác câu này vẫn còn vế sau chưa nói hết.
Phùng Bất Cơ lại bỗng nhiên vận công buông người nhảy xuống!
Đàm Vân Sơn sợ tới mức quên cả thở. Bên dưới, Phùng Bất Cơ nhanh nhẹn dùng khinh công đáp xuống, quay lại nói vọng lên: “Tôi phải xuống xem hoa văn khắc trên cột mới có thể xác nhận kĩ hơn.”
Đàm Vân Sơn ngửa mặt nhìn nóc hang tăm tối.
Ký Linh nín cười hét vọng xuống nói thay lời đội hữu: “Lần sau nhớ trước khi nhảy phải nói một tiếng…”
Phùng Bất Cơ phóng khoáng vung tay: “Rồi rồi…”
Ký Linh lại quay lại nhìn Đàm Vân Sơn, khuôn mặt vẫn tươi nguyên nụ cười.
Đàm Vân Sơn tưởng là nàng khoe mình đã nói giúp chàng nên đáp: “Tri kỷ.”
Ký Linh lườm chàng: “Ý tôi muốn hỏi là huynh định xuống thế nào!”
Đàm Vân Sơn lúng túng, ăn ý giữa hai người họ bồi đắp mãi mà không được. Chàng ngó xuống thăm dò thấy độ cao tuy không quá cao nhưng chắc chắn là không hề thấp bèn quyết định an toàn là trên hết: “Mọi người xuống đi, tôi đứng đây thôi, vừa hay có thể quan sát bốn phương tám hướng thông tin cho mọi người.”
Ký Linh biết thừa chàng không dám nhảy nhưng cũng không bắt bẻ được gì lý do của chàng, đang tính làm sao với sức lực và khinh công của mình có thể mang theo một người đàn ông tiếp đất an toàn thì bỗng nghe Phùng Bất Cơ ở dưới đó la lên một tiếng như thể phát hiện ra được điều gì đó: “Quả nhiên…”
“Sao vậy?” Ký Linh sốt sắng hỏi.
May là Phùng Bất Cơ không để nàng phải sốt ruột: “Trên cột là hoa văn mây Cửu Thiên, đây là tiên trận!”
Ký Linh kinh ngạc. Rốt cuộc Dị Bì là thần thánh phương nào mà có thể phiền tiên xuống bày trận vây hãm nó trong hang này? Nói đi cũng phải nói lại, nếu tiên đã khống chế được nó rồi thì sao không tiêu diệt luôn mà còn phải tốn sức bày tiên trận này?
Các câu hỏi liên tiếp đặt ra. Trên đỉnh đầu bất thình lình rung chuyển!
Đàm Vân Sơn và Bạch Lưu Song đồng loạt ngẩng đầu nhìn. Một tảng đá lớn đang ầm ầm lăn từ trên vách đá xuống!
“Phùng Bất Cơ, cẩn thận đá rơi!” Ký Linh lập tức la lớn.
Vừa la xong thì bỗng một lực mạnh tác động vào lưng, nàng mất thăng bằng, ngã ngửa ra sau theo chiều lực kéo.
Ngay khoảnh khắc ngã vào trong lối đi trong hang, tảng đá lớn lăn từ trên xuống lăn qua cửa ra của hang, nhanh chóng đáp xuống đáy vực tạo ra tiếng vang rầm trời, bụi đất bay lên mù mịt.
Ký Linh bấy giờ mới nhận ra mình đang dựa vào người Đàm Vân Sơn. Đàm nhị thiếu gia mới vừa rồi còn kiếm cớ không dám nhảy xuống giờ lại chủ động một tay ôm nàng, một tay kéo sói trắng, không khó để tưởng tượng ra vào thời khắc nguy cấp vừa rồi, phản ứng của chàng nhạy bén và mạnh mẽ cỡ nào.
Thật không biết người này rốt cuộc là nhát gan hay dũng cảm.
Đàm Vân Sơn không biết được suy nghĩ của đồng đội, thấy cô nương và sói đều không sao liền thoải mái buông tay ra đứng dậy ngó xuống dưới gọi to: “Phùng Bất Cơ, vẫn ổn chứ…”
Giống như lúc nãy gọi đầy đủ cả họ lẫn tên để nhắc nhở vậy, vào lúc thực sự lo lắng thì không còn để tâm đến chuyện xưng huynh gọi đệ nữa.
Giữa đám mây bụi vẫn còn chưa lắng lại và một đống ngổn ngang, hoàn toàn yên tĩnh.
Đàm Vân Sơn lập tức căng thẳng gọi thêm một tiếng, lần này gọi to hơn nữa: “Phùng Bất Cơ…”
Không có tiếng đáp lại, chỉ có tiếng vọng của chính Đàm Vân Sơn dội về.
Ký Linh lại gần nói với chàng: “Tôi xuống dưới đấy xem sao.”
Đàm Vân Sơn bất giác muốn ngăn cản nhưng dưới đấy có một đồng đội chưa rõ sống chết, chàng bèn bất chấp: “Tôi xuống cùng cô nương…”
Còn chưa nói hết câu, giữa bãi ngổn ngang bên dưới bỗng có tiếng nói quen thuộc vọng lên: “Tôi không sao…”
Cuối cùng cũng yên tâm.
Đàm Vân Sơn thoáng thở phào, khôi phục lại bình tĩnh: “Phùng huynh, lên đây trước đi đã…”
Không nói nhiều, nhanh chóng có một bóng người nhảy bật lên giữa đám bụi quay trở lại lối ra, bụi bặm bám khắp râu ria đầu tóc: “Sao?”
Đàm Vân Sơn dùng hành động thay cho câu trả lời… Một tay túm huynh ta, một tay giữ Ký Linh rồi ngẩng đầu ưỡn ngực: “Mang tôi bay xuống.”
Ký Linh bật cười, rất muốn trêu chọc nhưng lại cảm thấy Đàm Vân Sơn như thế này quả là đáng yêu.
Thế là, dưới sự trợ giúp của đồng đội, Đàm nhị thiếu gia đã được thử trải nghiệm một lần làm thiếu hiệp bay giữa trời. Bạch Lưu Song đi theo sau họ cũng vững vàng đáp xuống đất.
Lúc này, bụi bặm dần lắng lại, tầm nhìn trở nên rõ ràng.
Khối đá lớn lăn từ trên vách đá xuống chồng thành một đống cao, may là không làm tổn hại tiên trận, chỉ có điều cây cột đã đổ sẵn thì bị vùi mất quá nửa, còn lại ba cây cột và vùng giữa tiên trận may mắn thoát nạn.
Bạch Lưu Song biết không được sơ suất nên kiên nhẫn nghe Ký Linh dông dài xong mới biến thành chùm sáng tím bay đi.
Một canh giờ sau, nàng quay về an toàn.
Lần này, nàng đã cẩn thận tìm tòi mọi góc, chỉ thiếu điều không cuốc từng tấc đất lên xem nhưng vẫn không thu hoạch được gì, không có dây thừng, cũng không có lối đi nào. Điều duy nhất đáng mừng là không gặp phải Dị Bì, hay nói cách khác, Dị Bì vẫn không biết tung tích.
Tuy nhiên, dưới góc nhìn của Bạch Lưu Song thì chẳng thà cứ để nàng gặp Dị Bì cho xong, liều mạng đánh một trận còn đỡ hơn là chịu giày vò như hiện tại.
“Dây thừng đã đứt cũng không có à? Hoặc là đã phân hủy, có khi cô không để ý?” Đàm Vân Sơn vẫn chưa chịu từ bỏ.
Bạch Lưu Song lắc đầu, phủi phủi bụi đất bám khắp mặt và cổ: “Tôi sắp cày cả mũi xuống đất rồi đấy, thực sự là chỉ có đất với đá mà thôi.”
Ký Linh ngồi xổm bên bờ vực nhìn xuống vùng đen ngòm bên dưới, lần đầu tiên cảm thấy bất lực, thở dài, ngoảnh mặt lại cười chua chát nhìn Đàm Vân Sơn đứng cách đó mấy bước: “Đừng làm khó cô ấy nữa, có lẽ đúng là trượt chân ngã xuống thật.”
Đàm Vân Sơn nhìn nàng một hồi rồi bỗng gọi: “Lại đây.”
Ký Linh ngẩn ra không nhúc nhích.
Đàm Vân Sơn chìa bàn tay không cột khăn lụa ra, vừa gọi vừa nhắc lại: “Lại đây.”
Ký Linh chán nản, lòng thầm nhủ gọi vậy là gọi cún hay sao nhưng cơ thể thì vẫn rất ngoan ngoãn nghe lời đứng dậy đi lại chỗ Đàm Vân Sơn. Nàng hất mặt lên, quyết không chịu thất thế: “Sao?”
Đàm Vân Sơn mỉm cười hết sức hài lòng: “Ngồi gần vách đá vậy làm gì, đâu phải nhìn xuống đấy nhiều thì Dị Bì sẽ trồi lên đâu. Đứng đây an toàn hơn nhiều.”
Ký Linh ngớ ra, thấy lòng mình là lạ, vừa ấm áp vừa dở khóc dở cười: “Tôi có phải trẻ ranh ba tuổi đâu, đâu đến mức bị gió thổi xuống đấy.”
“Lỡ như người bên dưới cô quạnh quá muốn kéo nàng xuống chơi cùng thì sao.” Đàm Vân Sơn thở dài tỏ cái vẻ “cô nương vẫn còn ngây thơ lắm”, “Cẩn tắc vô áy náy.”
“…” Ký Linh biết vì sao lúc nào mình cũng muốn gõ chàng rồi, bởi vì căn bản không thể nói lại nổi, phải động thủ! Tuy nhiên, trước mắt rõ ràng không phải thời điểm thích hợp để “nồi da nấu thịt”, đành nghiến răng hỏi: “Vậy xin hỏi cẩn tắc thì tiếp theo chúng ta làm gì?”
Vốn là muốn hỏi khó đối phương, không ngờ chàng lại đáp ngay: “Đứng nguyên đây đừng di chuyển, tôi đi một lát sẽ quay lại ngay.”
Nói rồi, chàng xách dao đi ngược trở ra phía ngoài hang, đi được mấy bước còn không quên quay lại dặn Phùng Bất Cơ: “Phùng huynh giúp nhìn một chút nhé, đừng để nàng tới gần vách đá ngó đầu xuống xem…”
Tiếng nói văng vẳng tắt lịm, bóng chàng cũng đã biến mất trên lối đi chật hẹp tối tăm.
Phùng Bất Cơ nhìn Ký Linh đứng cách vách núi dăm bước chân rồi lại nhìn bản thân từ nãy tới giờ đều đứng sát bên miệng vực mà thấy lòng bỗng chua chát. Song, đối diện với sự tín nhiệm của huynh đệ, huynh ta vẫn phải rưng rưng hứa hẹn: “Đàm lão đệ, cứ yên tâm giao cho tôi…”
Chữ “tôi” vừa ra khỏi miệng, trong lối vào hang bỗng vang lên mấy tiếng cạch cạch, thỉnh thoảng còn có tia lửa lóe lên, mặc dù nhìn không được rõ nhưng có thể đoán ra là do dao chém lên vách hang đá.
Ký Linh và Phùng Bất Cơ nhìn nhau, không hiểu Đàm Vân Sơn đang làm trò gì, chắc không phải là không tìm được Dị Bì nên chém dao lên vách hang cho đỡ bực chứ?
Chẳng mấy chốc, tiếng dao chém lên vách tường nhỏ dần, tất nhiên là do Đàm Vân Sơn đã đi ngày càng xa hơn. Dựa theo tốc độ này, chẳng bao lâu nữa sẽ di chuyển ra tới cửa hang.
Song, Đàm Vân Sơn chém được giữa chừng thì ngừng lại. Bởi vì cuối cùng dao cũng chém phải chỗ có đất. Gần nửa thân dao cắm ngập vào vách, không bị phản lực dội ngược lại cổ tay như khi chém vào đá.
“Ký Linh, Phùng Bất Cơ, Bạch Lưu Song, lại giúp với…”
Lúc đồng đội cần che chở thì Đàm nhị thiếu gia che chở, tới lúc cần dùng tới sức lao động thì chàng cũng rất nghiêm túc nhờ cậy.
Ba tên đội hữu nghe vậy tức tốc phi tới. Chuông Tịnh Yêu, kiếm gỗ đào, móng vuốt sói nhất tề xông trận, cộng thêm cả dao của Đàm Vân Sơn, đào ra một cái hang to trên vách tường.
Nói là đào ra một cái hang cũng không được chuẩn xác bởi vì ở đó vốn là một cái cửa hang nhưng bị người ta lấy đất trét lại, đất bản địa của Hoàng Châu có độ kết dính cao, lấy đắp tường thì chẳng khác gì một khối đá, song nếu dùng dao chém thì sẽ thấy mềm. Hơn nữa, người đắp bức tường này có vẻ cũng không định bịt chết cửa hang, tường đắp không dày, dù chỉ đào một mình thì cũng không mất nhiều thời gian.
Tuy nhiên, khả năng ngụy trang của bức tường này lại rất mạnh… Trong hang động tối tăm, đất trộn với vôi sống trông chẳng khác gì vách đá của hang, dù có cầm đuốc soi cũng khó lòng phân biệt nổi.
“Sao biết ở đây có đường?” Bạch Lưu Song nghĩ mãi không hiểu, tâm trạng khá là phức tạp, “Biết có đường mà còn bắt tôi chạy lung tung ở dưới đó!”
Không đợi Đàm Vân Sơn trả lời, Ký Linh đã giữ vai nàng ấy lại: “Chính bởi cô vất vả ở dưới đấy nên huynh ấy mới hoàn toàn hết hy vọng sau đó đổi suy đoán theo hướng khác.”
Bạch Lưu Song nửa tin nửa ngờ, nheo mắt nhìn Đàm Vân Sơn.
Đàm Vân Sơn cười vô tội: “Nói đoán còn là dễ nghe, thực ra là làm bừa thôi. Tôi cho là một chỗ rộng thế này chắc không chỉ có mình bờ vực. Với cả mấy bộ xương bên dưới nằm rải rác chứ không dồn một chỗ, nếu nói là trượt chân ngã xuống vực thì quá gượng ép.”
Bạch Lưu Song nhíu mày: “Nói tới nói lui toàn là tự đoán, nếu đoán sai thì sao?”
Đàm Vân Sơn thở dài: “Vậy thì đành phải ra tay với bức tường yêu bịt cửa hang. Có bắt được Dị Bì hay không cũng chẳng sao nhưng không thể bị nhốt chết ở đây được.”
Bạch Lưu Song nghĩ tới bức tường yêu làm phép màu tím đen phá mãi không được kia, liếc nhìn chàng không lấy gì làm tin tưởng: “Nếu phá được thì nãy đã phá rồi.”
Đàm Vân Sơn hờ hững nhìn lại, đôi mắt ánh lên sự tự tin: “Vừa rồi không phá được không có nghĩa là mãi mãi không phá được. Trên đời này không có việc nào là kín kẽ không chỗ hở, chỉ phải xem xem là có chịu bỏ thời gian công sức để xem xét hay không mà thôi.”
Bạch Lưu Song bình tĩnh quan sát chàng một hồi rồi lại nghĩ tới những vấp ngã của bản thân, cuối cùng tin.
Nếu “quỷ kế đa đoan” là một phép tu hành thì, nàng nghĩ, Đàm Vân Sơn không cần phải bắt yêu thú làm gì nữa bởi đã đủ giỏi để thăng tiên luôn rồi. Hơn nữa, điểm mạnh nhất của người này là không biết thế nào là “hết cách”, thế nào là “tuyệt cảnh”, dẫn tới cũng rất hiếm khi sa vào những cảm xúc tiêu cực như “thất bại”, càng khỏi nói tới “cam chịu”. Chiêu một không được thì nghĩ chiêu hai, nhiều chiêu đều không được thì lùi lại tự bảo vệ mình. Tóm lại luôn có cách để bản thân thấy dễ chịu. Theo một nghĩa nào đó thì người như thế quả thực vô địch.
“Đây là gì?” Mọi người đi vào trong chiếc hang mới đào ra, Phùng Bất Cơ đi sau cùng phát hiện có thứ gì đó hơi vàng vàng dưới chân. Huynh ta tò mò cúi xuống bới đất ra, thì ra là một lá bùa phép!
Ba đồng đội lũ lượt quay đầu lại xem, không khỏi kinh ngạc khi chứng kiến huynh ta nhặt lá bùa đứng dậy.
Chưa ai kịp hỏi gì, lá bùa vùi dưới đất vốn lành lặn sạch sẽ tới độ không giống như được chôn trong tường đất bỗng bốc cháy. Phùng Bất Cơ giật mình thả tay ra, lá bùa đang cháy rơi xuống rồi tắt ngúm, chỉ còn để lại một nhúm tro tàn.
Đàm Vân Sơn không hiểu nhưng Ký Linh hiểu.
Người phàm bắt yêu có các phái khác nhau. Như nàng và Phùng Bất Cơ là theo phái phổ biến nhất “pháp khí là chính, võ nghệ là phụ”. Cách này dù đơn giản sơ sài nhưng dễ hiểu dễ học, dù là một thanh kiếm gỗ đào tự chế như của Phùng Bất Cơ cũng có thể đại sát tứ phương. Ngoài cách dễ học thì còn có cách khó học, có cách đơn giản thì cũng có cách phức tạp, ví dụ như “thuật bùa chú”.
Nàng và Phùng Bất Cơ đã từng vẽ “trấn yêu phù”, nếu phân loại một cách nghiêm ngặt thì đấy cũng được coi là “thuật bùa chú” nhưng những “thuật bùa chú” như vậy thì nhan nhản trên giang hồ. “Thuật bùa chú” chân chính uyên thâm bác học chỉ bí mật lưu truyền trong một nhóm thiểu số người. Điều này cũng làm cho những người bắt yêu dùng thuật bùa chú trở thành nhánh đặc biệt nhất trên giang hồ, dù số lượng không đông đảo nhưng hễ đã ra tay thì nhất định làm người ta phải tò mò vây xem tìm tòi nghiên cứu.
“Giờ vẫn còn người dùng thuật bùa chú à?” Bạch Lưu Song cũng biết thứ này nhưng lần gần nhất thấy thợ bắt yêu dùng thuật bùa chú ở Bạch Quỷ Sơn phải cỡ trăm năm trước. Nàng ta cứ nghĩ thuật này ngoại trừ trấn yêu phù thì những thứ còn lại đều đã thất truyền.
“Có,” Ký Linh đáp ngắn gọn, “chẳng qua rất hiếm.”
Phùng Bất Cơ chỉ bận tâm suy nghĩ một chuyện: “Có thợ bắt yêu dùng thuật bùa chú từng tới đây và còn xây nên bức tường này.”
Đàm Vân Sơn nghe đến đây thì đã hiểu. Chàng không biết thuật bùa chú là gì nhưng qua tên gọi và dăm ba câu các đội hữu trao đổi với nhau thì cũng đã hiểu được đại khái là một cách bắt yêu, điều chàng quan tâm là: “Lá bùa này chôn trong tường nhằm tác dụng gì?”
Phùng Bất Cơ nói: “Phòng yêu. Bùa chôn trong tường không ảnh hưởng gì tới con người nhưng yêu thì không thể tới gần, càng không thể xô đổ.”
“Chẳng lẽ tường này là để ngăn cản Dị Bị?” Bạch Lưu Song nghĩ gì thường nói ngay chứ không cân nhắc kỹ, nói xong thấy không đúng lại bổ sung, “Không đúng, Dị Bì muốn ra thì bay thẳng lên chỗ vách đá là ra, có phải đồ ngu đâu mà cứ nhất định phải tìm đường.”
Ba cặp mắt đang dò đường lập tức nhìn lại.
Bạch Lưu Song: “… Ý tôi là yêu thú, không phải nói mấy người!”
Chuyện không hiểu có cố suy nghĩ cũng không thể ra được, hơn nữa họ đã bị kẹt trong hang này một thời gian dài, trước mắt đây là con đường duy nhất, dù vẫn còn điểm khó hiểu nhưng chỉ còn cách là xông tới.
Gió thổi từng cơn lạnh thấu xương.
Bộ tứ dò dẫm di chuyển trong chiếc hang mới, mặc dù lối đi gập ghềnh nhưng có thể cảm nhận rõ là đang đi xuống.
Trong hang rất yên lặng, đến tiếng hít thở cũng nghe rõ ràng. Cuối cùng, Phùng Bất Cơ không chịu nổi bắt đầu tán gẫu nhắc lại chuyện “bức tường”: “Chúng ta không phải thợ bắt yêu đầu tiên xông vào đây, chí ít là trước chúng ta còn có một người biết dùng bùa chú, không biết người đó là đi nhầm hay là cũng cố ý tới đây tìm Dị Bì giống chúng ta.”
Không ai tiếp chuyện huynh ta.
Bạch Lưu Song đã biến thành sói đang dè dặt đánh hơi, Ký Linh hết sức nghiêm túc cảnh giác tiền phương, Đàm Vân Sơn thì đang bận suy nghĩ đủ mọi chuyện xảy ra kể từ lúc vào hang.
Mạng nhện ở cửa hang, bức tường màu tím đen, xương cốt dưới vực, bức tường chôn lá bùa, cửa hang bị bịt, lối rẽ bị thợ bắt yêu giấu lại thêm Dị Bì lúc nào cũng như kè kè theo sát mà lại không tìm thấy tung tích… Chuyện này cũng giống như lối đi đầy ổ gà ổ voi này vậy, hết cái này tới cái khác, không biết đâu là tận cùng.
Phùng Bất Cơ bĩu môi, không nói gì nữa, dù sao vừa rồi cũng chẳng ai nghe, chẳng có gì phải ngượng.
Ba người một sói cứ thế tiếp tục lần mò đi thẳng xuống, đi đến mức sắp gãy chân tới nơi thì hết đường. Cuối đường lại là một bức tường đất. Mọi người hợp sức lại đào, quả nhiên trong tường này cũng có một tấm bùa.
Dựa theo thời gian đi và độ dốc của lối đi để suy tính, mọi người đều cho là kiểu gì cũng đã xuống tới đáy vực rồi, nào ngờ xô đổ bức tường đất xong, đập vào mắt họ vẫn là một bờ vực làm cả đám suýt thì tuyệt vọng. May mà lại gần vách đá nhìn xuống thì thấy chỗ này chỉ cao chừng ba tầng lầu, nhìn chếch xuống đã có thể thấy rõ toàn bộ trận pháp vĩ đại và bốn cây cột cái đứng cái nằm.
“Chẳng trách sói trắng tìm ở dưới đó mãi mà không tìm được đường. Chỗ này cao như vậy, làm sao mà thấy!” Phùng Bất Cơ cảm thán, “Lại còn bịt đất cả hai đầu. Tên đó không phải ăn no rảnh mỡ chứ, nghĩ đủ cách giấu lối đi này đi để được gì? Có ngăn được yêu đâu!”
“Nhưng có thể ngăn được người.” Đàm Vân Sơn cuối cùng cũng gỡ rối được vài điều giữa một mớ bòng bong, quay qua hỏi hai đồng đội, “Đó là trận pháp trấn yêu à?”
Ký Linh mím chặt môi nhìn chằm chằm trận pháp bên dưới. Trước lúc này, không cần nhìn nàng vẫn có thể nói ngay rằng mình không biết mà không lăn tăn gì. Bởi vì căn bản sư phụ chưa từng dạy cho nàng về trận pháp cũng như chưa từng nói gì về thần tiên và Cửu Thiên Tiên Giới vậy. Ngay cả trấn yêu phù cũng là nàng học được từ những người tu hành khác sau khi xuống núi. Song, lúc này đây, khi tận mắt nhìn thấy đàn làm phép này, nàng lại không thể nói chắc như đinh đóng cột được vì nàng thực sự có cảm giác mình đã từng gặp thứ gì đó tương tự nhưng gặp ở đâu, vào lúc nào, thứ ấy rốt cuộc là thứ gì thì hoàn toàn mơ hồ, thậm chí ngay cả ý thức “mình đã từng nhìn thấy nó” này cũng như miếng băng mỏng khi nhìn dưới ánh mặt trời vậy, có mà dường như lại không có.
Đàm Vân Sơn cho sự im lặng của nàng nghĩa là “không chắc” bèn chuyển sang nhìn Phùng Bất Cơ. Phùng Bất Cơ không phụ sự trông đợi, sau một hồi trầm ngâm thì đáp: “Đúng là trận pháp trấn yêu…”
Đàm Vân Sơn lặng lẽ nhíu mày, chàng cảm giác câu này vẫn còn vế sau chưa nói hết.
Phùng Bất Cơ lại bỗng nhiên vận công buông người nhảy xuống!
Đàm Vân Sơn sợ tới mức quên cả thở. Bên dưới, Phùng Bất Cơ nhanh nhẹn dùng khinh công đáp xuống, quay lại nói vọng lên: “Tôi phải xuống xem hoa văn khắc trên cột mới có thể xác nhận kĩ hơn.”
Đàm Vân Sơn ngửa mặt nhìn nóc hang tăm tối.
Ký Linh nín cười hét vọng xuống nói thay lời đội hữu: “Lần sau nhớ trước khi nhảy phải nói một tiếng…”
Phùng Bất Cơ phóng khoáng vung tay: “Rồi rồi…”
Ký Linh lại quay lại nhìn Đàm Vân Sơn, khuôn mặt vẫn tươi nguyên nụ cười.
Đàm Vân Sơn tưởng là nàng khoe mình đã nói giúp chàng nên đáp: “Tri kỷ.”
Ký Linh lườm chàng: “Ý tôi muốn hỏi là huynh định xuống thế nào!”
Đàm Vân Sơn lúng túng, ăn ý giữa hai người họ bồi đắp mãi mà không được. Chàng ngó xuống thăm dò thấy độ cao tuy không quá cao nhưng chắc chắn là không hề thấp bèn quyết định an toàn là trên hết: “Mọi người xuống đi, tôi đứng đây thôi, vừa hay có thể quan sát bốn phương tám hướng thông tin cho mọi người.”
Ký Linh biết thừa chàng không dám nhảy nhưng cũng không bắt bẻ được gì lý do của chàng, đang tính làm sao với sức lực và khinh công của mình có thể mang theo một người đàn ông tiếp đất an toàn thì bỗng nghe Phùng Bất Cơ ở dưới đó la lên một tiếng như thể phát hiện ra được điều gì đó: “Quả nhiên…”
“Sao vậy?” Ký Linh sốt sắng hỏi.
May là Phùng Bất Cơ không để nàng phải sốt ruột: “Trên cột là hoa văn mây Cửu Thiên, đây là tiên trận!”
Ký Linh kinh ngạc. Rốt cuộc Dị Bì là thần thánh phương nào mà có thể phiền tiên xuống bày trận vây hãm nó trong hang này? Nói đi cũng phải nói lại, nếu tiên đã khống chế được nó rồi thì sao không tiêu diệt luôn mà còn phải tốn sức bày tiên trận này?
Các câu hỏi liên tiếp đặt ra. Trên đỉnh đầu bất thình lình rung chuyển!
Đàm Vân Sơn và Bạch Lưu Song đồng loạt ngẩng đầu nhìn. Một tảng đá lớn đang ầm ầm lăn từ trên vách đá xuống!
“Phùng Bất Cơ, cẩn thận đá rơi!” Ký Linh lập tức la lớn.
Vừa la xong thì bỗng một lực mạnh tác động vào lưng, nàng mất thăng bằng, ngã ngửa ra sau theo chiều lực kéo.
Ngay khoảnh khắc ngã vào trong lối đi trong hang, tảng đá lớn lăn từ trên xuống lăn qua cửa ra của hang, nhanh chóng đáp xuống đáy vực tạo ra tiếng vang rầm trời, bụi đất bay lên mù mịt.
Ký Linh bấy giờ mới nhận ra mình đang dựa vào người Đàm Vân Sơn. Đàm nhị thiếu gia mới vừa rồi còn kiếm cớ không dám nhảy xuống giờ lại chủ động một tay ôm nàng, một tay kéo sói trắng, không khó để tưởng tượng ra vào thời khắc nguy cấp vừa rồi, phản ứng của chàng nhạy bén và mạnh mẽ cỡ nào.
Thật không biết người này rốt cuộc là nhát gan hay dũng cảm.
Đàm Vân Sơn không biết được suy nghĩ của đồng đội, thấy cô nương và sói đều không sao liền thoải mái buông tay ra đứng dậy ngó xuống dưới gọi to: “Phùng Bất Cơ, vẫn ổn chứ…”
Giống như lúc nãy gọi đầy đủ cả họ lẫn tên để nhắc nhở vậy, vào lúc thực sự lo lắng thì không còn để tâm đến chuyện xưng huynh gọi đệ nữa.
Giữa đám mây bụi vẫn còn chưa lắng lại và một đống ngổn ngang, hoàn toàn yên tĩnh.
Đàm Vân Sơn lập tức căng thẳng gọi thêm một tiếng, lần này gọi to hơn nữa: “Phùng Bất Cơ…”
Không có tiếng đáp lại, chỉ có tiếng vọng của chính Đàm Vân Sơn dội về.
Ký Linh lại gần nói với chàng: “Tôi xuống dưới đấy xem sao.”
Đàm Vân Sơn bất giác muốn ngăn cản nhưng dưới đấy có một đồng đội chưa rõ sống chết, chàng bèn bất chấp: “Tôi xuống cùng cô nương…”
Còn chưa nói hết câu, giữa bãi ngổn ngang bên dưới bỗng có tiếng nói quen thuộc vọng lên: “Tôi không sao…”
Cuối cùng cũng yên tâm.
Đàm Vân Sơn thoáng thở phào, khôi phục lại bình tĩnh: “Phùng huynh, lên đây trước đi đã…”
Không nói nhiều, nhanh chóng có một bóng người nhảy bật lên giữa đám bụi quay trở lại lối ra, bụi bặm bám khắp râu ria đầu tóc: “Sao?”
Đàm Vân Sơn dùng hành động thay cho câu trả lời… Một tay túm huynh ta, một tay giữ Ký Linh rồi ngẩng đầu ưỡn ngực: “Mang tôi bay xuống.”
Ký Linh bật cười, rất muốn trêu chọc nhưng lại cảm thấy Đàm Vân Sơn như thế này quả là đáng yêu.
Thế là, dưới sự trợ giúp của đồng đội, Đàm nhị thiếu gia đã được thử trải nghiệm một lần làm thiếu hiệp bay giữa trời. Bạch Lưu Song đi theo sau họ cũng vững vàng đáp xuống đất.
Lúc này, bụi bặm dần lắng lại, tầm nhìn trở nên rõ ràng.
Khối đá lớn lăn từ trên vách đá xuống chồng thành một đống cao, may là không làm tổn hại tiên trận, chỉ có điều cây cột đã đổ sẵn thì bị vùi mất quá nửa, còn lại ba cây cột và vùng giữa tiên trận may mắn thoát nạn.
Bạn có thể dùng phím mũi tên
hoặc WASD để
lùi/sang chương