Ta hiểu rồi.
“Chu Linh Phong.”
“Hửm?”
“Chàng chống lưng cho ta chứ?”
Chàng không đáp, chỉ kéo ta đi thẳng qua con phố náo nhiệt, rồi bất chợt chạy.
Hai chúng ta chạy thẳng đến cửa lớn Huyền phủ, hắn giơ chân đá tung cửa.
“Ngư nhi, chửi đi!”
Chàng đứng sau ta, giọng trầm:
“Cất cao giọng! Chửi cho sảng khoái!”
Ta quay lại nhìn, thấy ánh mắt chàng kiên định, chẳng chút do dự:
“Ai phụ lòng nàng, chửi! Ai cười nhạo nàng, chửi! Ai bôi nhọ danh tiếng nàng, chửi!”
Tim ta đập dồn dập, đúng lúc Huyền Trường Quân bước ra.
“Ngươi...” Ta l**m môi, bật lời:
“Ngươi là kẻ một chân giẫm Đông Kiều, một chân bước Tây Lương, háng vắt ngang sông hộ thành, không sợ gió thổi tung quần, lộ ra hai lạng vật ấy cho người ta cười sao?!”
Chửi xong, quả thật thấy sảng khoái vô cùng.
Huyền Trường Quân sững người, nói:
“Diệu Nhân, nàng là nữ tử, sao có thể ăn nói như vậy?”
Chu Linh Phong lạnh giọng ngắt lời:
“Chửi ngươi đó, nghe cho kỹ!”
Khí thế đã mở, ta như suối trào ý tứ, càng nói càng trơn tru:
“Mười hai năm ta nuôi chó, chẳng ngờ con chó ấy bỏ xương thịt không ăn, lại thích ăn cứt!
Ngươi thích cái kẻ suốt ngày mặt mày tang tóc kia à? Khóc gì? Nhà ngươi có ai chết đâu?
Sao ta để ý ai, nàng ta cũng phải nhào vô? Ta nhổ bãi nước bọt, nàng ta cũng muốn ghé lại l**m hai cái à? Xe chở phân nhà ta đi qua, nàng ta cũng phải chạy theo nếm thử mặn nhạt ư?!”
Ta ồn ào đến thế, nếu Huyền Trường Toàn không nghe thấy thì mới lạ.
Nàng rốt cuộc vẫn phải ra, nhưng lại vừa khóc vừa nói mình ủy khuất.
Huyền Trường Quân đứng ra che chở, bảo:
“Diệu Nhân, việc Tùy vương thích nàng, vốn chẳng can hệ đến Toàn nhi, đừng trút giận lên nàng ấy.”
Ta túm lấy một người xem náo nhiệt hỏi:
“Bài thơ đang truyền nhiều nhất dạo này, ngươi có thuộc không?”
Người ấy ngại ngùng, ấp úng.
Ta tháo khuyên ngọc trên tai xuống:
“Nói đi, ta không phạt, còn thưởng ngươi vật này.”
Hắn mê mẩn nhìn khuyên, liền đọc rành rọt.
Ta quay sang Huyền Trường Quân:
“Ngươi nghe thử xem, văn phong này quen chứ? Giọng điệu của ai?”
Mặt hắn tái nhợt, rồi trắng bệch, quay lại nhìn “bảo bối” của mình:
“Toàn nhi... tại sao lại thế?”
Hắn khẽ lắc đầu, nói:
“Toàn nhi, đúng là nàng viết, ta nghe là biết, lần này ta không thể bao che nữa.”
Huyền Trường Toàn lại ngẩn ra, hỏi đờ đẫn:
“Ca ca vừa nói ai thích nàng?”
Chu Linh Phong khẽ cười lạnh, thong thả đáp:
“Quốc chủ nước Tùy — Tùy vương, đã để mắt tới Ngư nhi, muốn lập nàng làm hoàng hậu.”
“Tùy vương... hoàng hậu... Không phải... không phải sứ thần sao? Sao lại là vương? Ca ca! Sao huynh không nói! Là vương đó! Là vương!”
Nàng níu lấy tay áo Huyền Trường Quân, kêu to:
“Ca ca, Tùy vương nhìn trúng người là ta! Người nên làm hoàng hậu là ta!”
Nàng quay ra giữa đám đông, bất kể ai nghe hay không, hét lớn:
“Là ta! Là ta! Tùy vương thích ta! Người muốn lập ta làm hoàng hậu!”
Sắc mặt Huyền Trường Quân sầm lại, quát to:
“Toàn nhi! Nàng điên rồi sao?!”
Chu Linh Phong hờ hững lắc quạt, kéo ta đi:
“Đi thôi, Ngư nhi.”
Trên đường về, ta thấy có người đang rải giấy giữa đám đông — chắc là truyền đơn dấy loạn lòng người.
Ta liền nhặt lên mấy tờ, xem thử.
「Trăng vằng vặc soi dòng, ánh bạc tràn khắp; vảy vàng ẩn hiện giữa nước xanh, phản chiếu bóng cá trong hồ. Ngọc trai, phỉ thúy đính cùng mã não — há có thể lấy quýt bắc thay được quýt nam chăng?」
Tuy cùng soi dưới ánh trăng, nhưng ta là dòng sông dài mênh mang, còn nàng chỉ là mương tối chật hẹp.
Tuy cùng sinh trong nước, nhưng ta là cá vàng lặn nhảy, nàng chỉ là cá thường trong ao.
Nốt ruồi son này, chẳng phải là cành hồng nở loạn, mà là viên mã não điểm giữa đôi mắt như ngọc trai phỉ thúy.
Dù dung mạo có phần tương tự, há có thể lấy thứ quýt chua cay vùng đất bắc mà thay được quýt ngọt thanh của miền nam sao?
Những tờ giấy ta nhặt được đều chép lại bài thơ ấy, song nét chữ mỗi tờ mỗi khác — tờ này bút lực mạnh mẽ là Chu Linh Phong viết, tờ kia vuông vức chuẩn mực là của Ngô đại nhân, tờ xiêu xiêu vẹo vẹo là của Trần tướng quân, còn tờ dính hai vệt dầu mỡ ắt là của Tống Thái bảo.
Chu Linh Phong nói được làm được, quả nhiên không để ta chịu nửa phần ủy khuất.
Tính chàng vốn kiêu ngạo, ta sớm đã biết. Năm xưa Thành Hy còn nhỏ tuổi đăng cơ, có kẻ trong triều chẳng phục. Tuy chẳng dám công khai, nhưng lời lẽ quanh co, rằng quốc quân trẻ tuổi nhân hậu sáng suốt, tôn sư trọng đạo, đặc ban quyền nhiếp chính cho Thái sư.
Thực ra lời ấy chỉ là nói suông. Khi ấy Thành Hy chỉ là một đứa trẻ chưa ráo miệng sữa; nếu Chu Linh Phong không gánh vác việc triều chính, thì nước Lỗ sớm đã bị các nước lân bang chia xé.
Nói cho cùng, chiếc mũ to “nhiếp chính” ấy, ai đội lên cũng phải run rẩy như đứng trên băng.
Nhưng Chu Linh Phong lại khác người — chàng cuồng ngạo mà thẳng thắn. Một bài văn dài, chàng điểm danh mắng thẳng mấy vị đại thần chỉ biết hưởng lộc mà chẳng làm việc, tham lam nịnh bợ, chẳng khác gì bùn thối không đắp nổi tường. Chàng nói: nếu trong bọn họ có lấy một người hữu dụng, thì đâu cần đến một Thái sư không thực quyền như chàng ra tay trị chính?
Văn vừa công bố, lời lẽ sắc bén như gươm, từng chữ đánh thẳng vào mặt.
Thành Hy tuy còn nhỏ, tâm tư lại tinh quái, bèn cất giọng non nớt đọc nguyên bài ngay giữa triều. Đọc xong, chàng còn tròn xoe mắt hỏi ta:
“Thưa sư phụ, ‘phế vật điểm tâm’ là món bánh gì thế ạ?”
Khi ấy, ba vị đại thần mặt mày chẳng ai giữ nổi. Một người tức đến sinh bệnh, một người cáo lão về quê, còn người cuối cùng gắng cãi lại, kết quả bị Chu Linh Phong ba câu dồn ép đến á khẩu, về nhà đập nát cả văn phòng tứ bảo, thề rằng từ nay không viết văn nữa.
Văn chương bút mực của Chu Linh Phong, thật sự là trong sạch vô tì vết, đúng như câu:
“Bên ao rửa bút cây nhà ta, hoa nở phảng phất sắc mực nhạt.
Chẳng cần ai khen màu tươi tốt, chỉ nguyện hương trong ngát đất trời.”
Chàng làm văn làm thơ, vốn luôn công chính, không pha tạp tư tình —
duy chỉ lần này, viết bài thơ ấy, từng chữ đều nhằm vào Huyền Trường Toàn, lại mang theo chút tâm tư.
