Tuyển Tập Truyện Giả Tưởng Của Conan Doyle
Chương 11
Câu chuyện được kể ra dưới đây đã được tìm thấy trong những giấy tờ của bác sỹ Jaines Hardcastle, người đã chết vì bệnh lao phổi ngày 4 tháng 2 năm 1908 tại số 36 ở khu nhà Upper Country South Kesington. Những bè bạn thân thiết của ông đã không chịu bày tỏ một ý kiến nào về sự giao dịch có tính cách đặc biệt giữa ông và họ, nhưng họ đã nhất trí nói rằng người bạn quá cố ấy có một tinh thần khoa học và điềm đạm, ông không có vẻ gì là một người giàu trí tưởng tượng và không thể bịa đặt những chuyện ly kì ra ngoài sự bình thường. Tập truyện được để trong một phong bì bên ngoài có hàng chữ như sau: “Bản lược thuật những sự cố đã xảy ra tại vùng lân cận trang trại của cô Allerton, ở Derbyshire miền tây bắc vào mùa xuân năm trước”. Phong bì có dấu niêm kín. Ở mặt sau có những dòng chữ bằng bút chì. “Bạn Seaton thân mến, “Chắc chắn bạn sẽ thấy thích thú, có lẽ đôi chút sợ hãi, là sự hoài nghi của bạn khi tiếp nhận câu chuyện của tôi, đã làm tôi không dám nói tới vấn đề này. Do đó tôi để tài liệu này trong các giấy tờ của tôi, sau khi tôi chết rồi không chừng những người xa lạ sẽ bày tỏ sự tin tưởng về tôi còn hơn là bạn của tôi? Những sự sưu tra được thực hiện để tìm ra nhân vật Seaton đó đều vô hiệu. Tôi xin phép được nói thêm rằng thời gian cư ngụ của người quá cố tại trang trại Allerton cũng như sự mô tả đại cương về các tình huống (tôi không nói tới sự giải thích của ông về vụ này) đã được kiểm chứng rõ ràng. Tôi xin ngưng lời mào đầu ở đây để ghi lại câu chuyện đúng như nó đã được phát hiện. 17 tháng tư – Tôi đã cảm thấy ngay sự bổ ích mà không khí kỳ diệu của vùng cao nguyên mang lại cho tôi. Trang trại nhà Allerton tọa lạc ở độ cao năm trăm thước bên trên mặt biển do đó khí hậu rất lành mạnh. Ngoài những cơn ho thường lệ vào buổi sáng, tôi không cảm thấy một điều gì khó chịu cả. Với sữa tươi và thịt cừu trong vùng, có thể là tôi sẽ lên cân. Tôi tin rằng Sauderson sẽ hài lòng. Hai cô con gái nhà Allerton đều có vẻ độc đáo và đáng yêu một cách quý phái; cả hai cô đều là gái lớn tuổi, cùng nhỏ bé, nhưng cần mẫn như nhau, họ sẵn sàng dành cho một người bện xa lạ tất cả tấm lòng mà họ có thể hiến dâng cho người thân yêu của họ. Đúng thật, các cô gái già là những người rất hữu ích! Đó là một trong những sức mạnh mà xã hội gìn giữ để dự phòng... nguời ta hay có thiện kiến coi các cô gái già như những người đàn bà vô dụng nhưng nếu không có sự giúp đỡ tận tâm của họ thì một gã đàn ông khốn khổ vô dụng sẽ làm được việc gì? Trở lại câu chuyện, các cô rất mau chóng để lộ ra qua thái độ giản dị cái lý do mà Saunderson đã giới thiệu tôi tới nhà họ. Vị giáo sư là người tự lập thân, hồi trai trẻ đã làm thuê cho các trang trại ở quanh vùng này. Nơi đây rất hẻo lánh; những cuộc dạo chơi không thiếu gì cảnh đẹp. Trang trại có những đồng cở nằm sâu trong một thung lung lũng lởm chởm đá. Ở hai bên đường có những quả đồi đá vôi kỳ ảo; những tảng đá ở đó rất mềm đến nỗi ta có thể dùng tay bóp vỡ chúng. Tất cả vùng quê này đều có vẻ như trống rỗng. Nếu tôi có thể đập vào nó bằng một cái búa khổng lồ, chắc nó sẽ vọng lên như một cái trống, nếu nó không tan vụn ra và để lộ một cái biển ngầm dưới mặt đất. Đúng, chắc chắn phải có một cái biển ngầm lớn, vì ở khắp mọi phía đều có những con suối uốn khúc quanh sườn núi, rồi biến mất trong lòng đất, không bao giờ xuất hiện lại nữa. Ở khắp mọi nơi giữa các tảng đá đều có những hang động. Nếu đi vào đó, người ta sẽ vào trong những hang động lớn xuyến sâu vào tận lòng trái đất với vô số khúc quanh. Tôi có một cái đèn nhỏ; và với tôi đó là một sự vui thú lớn khi mang nó theo trong những nơi hoang vắng kỳ bí này và được ngắm nhìn các hiệu ứng của màu đen và màu trắng khi chiếu ánh đèn lên những nhũ đá che phủ các khung vòm cao khi tắt đèn đi; ta đang đứng trong những màn đêm tối tăm nhất. Đốt đèn lên đó là một cảnh tiên trong truyện ngàn lẻ một đêm. Một trong các hang động kỳ quái này làm tôi đặc biệt quan tâm vì nó là một tác phẩm của con người chớ không phải là của tạo hóa. Trước khi đặt chân đến nơi này, chưa bao giờ tôi nghe thấy người ta nói tới Blue John. Đây là một cái thên đặt cho một thứ kim loại có màu tía rực rỡ, mà người ta chỉ tìm thấy ở hai hoặc ba vùng trên thể giới. Nó quý hiếm đến nỗi một cái bình tầm thường bằng Blue John cũng có giá rất đắt. Với bản năng kỳ lạ của họ, người La mã đã tìm ra kim loại đó trong thung lũng này và họ đã đào một cái hầm xuyên ngang rất sâu trên sườn núi. Cái hầm mỏ của họ được đặt tên là hang Blue John: một vòm cầu đục vào vách núi dùng làm lối ra vào; những bụi cây rậm đã phủ kín miệng hang. Những thợ mỏ La mã đã khoét một hành lang đẹp đẽ chạy xuyên qua những hang động lớn đã bị nước xói mòn đến nỗi nến người nào đi sâu vào hang Blue John, thì tốt hơn hết là nên đánh dấu các tiêu điểm và phải mang theo rất nhiều nến; bằng không sẽ có sự rủi ro rất lớn là có thể không bao giờ còn lại nhìn thấy ánh sáng mặt trời nữa. Tôi chưa dám mạo hiểm; nhưng hôm nay tôi dừng lại ở lối vào của cửa vòm, và đưa mắt nhìn kỹ vào các ngõ ngách tối tăm mà tôi thấy lờ mờ ở phía trong. Tôi tự hứa hẹn rằng ngay sau khi bình phục, tôi sẽ dành những ngày nghỉ để thám hiểm những bí ẩn dưới mặt đất để xem những người La mã đã vào tới độ sâu bao nhiêu trong các ngọn đồi ở Derbyshire này. Những người dân quê dị đoan quá chừng! Tuy vậy chàng thanh niên Armitage đã gây cho tôi một ấn tượng tuyệt vời! Anh ta có nghị lực và có học vấn; tôi đã đặt anh ta cao hơn vị trí xa hội thực sự của anh ta. Và trong khi tôi dừng bước trước hang Blue John, thì anh ta đi qua đồng cỏ đến nơi và nói với tôi. - Chào bác sỹ, ông không sợ à, ít ra ông cũng biết sợ chứ? - Sợ à? Và tôi sợ cái gì cơ chứ? - Sợ nó đó, anh ấy trả lời tôi và lấy ngón tay cái chỉ vào cái vòm đen sì. Sợ con quái vật sống trong hang động Blue John đó! Sự dễ tin khiến các chuyện hoang đường được loan truyền trong một vùng hẻo lánh thật không thể ngờ được! Tôi hỏi anh ta về nguồn gốc của sự xác quyết ấy. Hình như ai cũng biết rằng thỉnh thoảng có những con cừu đã mất tích trong đồng cỏ. Armitage quả quyết rằng chúng đã bị bắt đi. Anh ta nhất định không chịu tin là chúng đã bỏ đi lang thang, và bị lạc trong núi. Một lần người ta đã tìm thấy một vũng máu và một vài búi lông. Nhưng tới đó người ta vẫn phải chấp nhận một lối giải thích khá tự nhiên. Hơn nữa, nhũng con cừu mất tích chỉ vào những đêm không có trăng, trời tối đen như mực; tôi phản đối, ai cũng biết rằng một tên ăn trộm bắt gà bắt vịt tầm thường cũng thích chọn những đêm tối mịt để hành nghề nữa là, một lần khác, một lỗ hổng đã được khoét ở một bức tường, và những hòn đã đã bị khuân đi bỏ vương vãi tại một khoảng cách khá xa; theo ý tôi thì đây là công việc của một hay nhiều người. Cuối cùng, Armitage đã tóm tắt tất cả lập luận của anh ta bằng cách kể lại cho tôi nghe rằng anh ta đã nghe rõ ràng tiếng con quái vật và bất cứ ai cũng có thể nghe tiếng của nó, với điều kiện là phải đứng rình khá lâu ở gần hang. Đó là một tiếng gầm xa xôi, với một sức mạnh khủng khiếp. Tôi chỉ có thể mỉm cười vì tôi biết những tiếng vòng kỳ dị phát ra bởi luồng nước ngầm dưới mặt đất chảy quanh co trong các hang sâu đước kết tạo bằng đá vôi. Thái độ không tin của tôi làm Armitage bực bội, và anh ta đã từ giã tôi một cách hơi vội vã. Sự dễ tin khiến các chuyện hoang đường được loan truyền trong một vùng hẻo lánh thật không thể ngờ được! Tôi hỏi anh ta về nguồn gốc của sự xác quyết ấy. Hình như ai cũng biết rằng thỉnh thoảng có những con cừu đã mất tích trong đồng cỏ. Armitage quả quyết rằng chúng đã bị bắt đi. Anh ta nhất định không chịu tin là chúng đã bỏ đi lang thang, và bị lạc trong núi. Một lần người ta đã tìm thấy một vũng máu và một vài búi lông. Nhưng tới đó người ta vẫn phải chấp nhận một lối giải thích khá tự nhiên. Hơn nữa, nhũng con cừu mất tích chỉ vào những đêm không có trăng, trời tối đen như mực; tôi phản đối, ai cũng biết rằng một tên ăn trộm bắt gà bắt vịt tầm thường cũng thích chọn những đêm tối mịt để hành nghề nữa là, một lần khác, một lỗ hổng đã được khoét ở một bức tường, và những hòn đã đã bị khuân đi bỏ vương vãi tại một khoảng cách khá xa; theo ý tôi thì đây là công việc của một hay nhiều người. Cuối cùng, Armitage đã tóm tắt tất cả lập luận của anh ta bằng cách kể lại cho tôi nghe rằng anh ta đã nghe rõ ràng tiếng con quái vật và bất cứ ai cũng có thể nghe tiếng của nó, với điều kiện là phải đứng rình khá lâu ở gần hang. Đó là một tiếng gầm xa xôi, với một sức mạnh khủng khiếp. Tôi chỉ có thể mỉm cười vì tôi biết những tiếng vòng kỳ dị phát ra bởi luồng nước ngầm dưới mặt đất chảy quanh co trong các hang sâu đước kết tạo bằng đá vôi. Thái độ không tin của tôi làm Armitage bực bội, và anh ta đã từ giã tôi một cách hơi vội vã. Nhưng đây là một việc kinh dị nhất trong chuyện này. Tôi vẫn đứng yên ở lối vào hang, và tôi đang ngẫm nghĩ tới tất cả những lời giải thích mà các sự kiện do Armitage kể lại có thể chấp nhận được thì bỗng nhiên từ đáy sâu của hang dội lên một tiếng động hết sức kỳ quái. Biết mô tả nó ra sao đây? Trước hết, nó có vẻ như vọng tới từ một nơi rất xa, phát ra ngay trong ruột của quả đất. Hai là, mặc dù sự xa xôi đó, chắc chắn là rất mạnh. Sau hết, đây không phải là tiếng nổ ầm ầm, cũng không phải tiếng khối băng tan tức khắc gây ra một thác nước hay sự sụp lở các tảng đá; đó là một thứ tiếng rên rỉ chói tai, rung đông, ngâm nga, giống như tiếng hí của một con ngựa. Không còn chối cãi được nữa, tôi thấy mình đang đứng trước một điều gì hết sức đặc biệt, và tôi phải đặt một ý nghĩa mới vào những lời nói của Armitage. Tôi đợi trong một nửa giờ trước cửa hang Blue John, nhưng tôi không nghe thấy gì nữa; do đó tôi quay về trang trại, lòng rất băn khoăn vì sự việc xảy ra. Tôi quyết định sẽ thám hiểm cái hang này khi đã phục hồi sức khỏe! Chắc chắn là sự giải thích của Armitage quá mơ hồ, không đáng bàn luận; nhưng nó cũng không ngăn cản được sự thật là tiếng động kia rất quái dị. Nó vẫn còn vọng trong tai tôi khi tôi viết những dòng này. 20 tháng tư- Trong ba ngày vừa qua, tôi đã thực hiện vài chuyến dạo chơi chung quanh hang Blue John, tôi đã đi vào cả phía bên trong, nhưng không vào quá xa vì cái đèn của tôi không được sáng lắm. Tôi muốn tiến hành một cuộc thăm dò kỹ lưỡng. Tôi không nghe thấy một tiếng động nào giống như tiếng mà tôi tình cờ nghe thấy hôm nọ, đến nỗi tôi phải tự hỏi rằng có phải tôi đã là nạn nhân của bệnh ảo giác có lẽ được gây ra bởi buổi nói chuyện với Armitage? Chắc chắn là ý nghĩ của anh ta không đứng vững được! Tuy nhiên tôi phải nhìn nhận rằng các bụi cây một phần nào lấp kín cửa hang có vẻ như đã bị rẽ ra và bị dẫm nát bởi một con vật to lớn. Tôi bắt đầu thích thú. Tôi không hé một lời với các tiểu thư nhà Allerton: các cô gái đã quá dị đoan rồi! Nhưng tôi mua những cây nến và đơn độc một mình mở cuộc điều tra. Sáng hôm nay, tôi nhận thấy trong số rất nhiều búi lông cừu rải rác trên các bụi cây ở gần cái hang có một búi nhuốm máu. Tất nhiên là lý trí của tôi bảo tôi rằng nếu những con cừu mạo hiểm vào những nơi thế này, chúng rất dễ bị thương tích vì các tảng đá gồ ghề. Tuy nhiên, khi nhìn thấy những vết máu đỏ thẫm này, tôi run lên và kinh hoàng lùi lại, một luồng hơi hôi thối hình như bốc lên từ những khoảng sâu tăm tối mà tôi cố căng mắt thăm dò một lần nữa. Thật sự có thể có một con vật không có tên, khủng khiếp ẩn nấp trong đó không? Vào lúc hoàn toàn mạnh khỏe, chắc hẳn tôi không thể nào có được loại cảm giác này, nhưng khi ta bị yếu kém về sức khỏe, ta trở nên nhút nhát hơn và óc tưởng tượng gây ra sự quái dị. Lúc đó, quyết tâm của tôi yếu đi và tôi cảm thấy sẵn sàng từ bỏ việc thám hiểm cái hầm mỏ cũ, và nhìn nhận rằng cái hầm mỏ đó có một điều bí mật. Nhưng chiều hôm nay tôi lấy lại sự hăng hái, những dây thần kinh của tôi đã bình tĩnh lại. Tôi hy vọng là ngày mai tôi sẽ đi sâu hơn vào vấn đề này. 22 tháng tư – Tôi phải dùng cách viết ra giấy để kể lại chính xác tối đa cuộc mạo hiểm ly kỳ của tôi ngày hôm qua. Tôi đã khởi hành vào buổi chiều và đi tới hang Blue John. Tôi xin thú thật rằng những điều linh cảm của tôi lại hiện ra; khi thăm dò những chỗ sâu thẳm của cái hang, đúng ra tôi nên phải có một người bạn đồng hành trong cuộc thám hiểm. Nhưng tôi đã lấy lại sư can đảm, tôi thắp nến lên, vượt qua hàng rào cản của những bụi cây và đi vào bên trong hang. Trong khoảng chừng hai mươi thước, hang hơi dốc thoai thoải; mặt đất phủ đầy những đá vụn. Tiếp theo là một lối đi dài chạy theo chiều ngang được khoét vào đá kiên cố. Tôi không phải là nhà địa chất học nhưng chắc chắn là cái vòm cong phia bên trong đã được cấu tạo bằng một chất cứng hơn đá vôi; đó đây, ở một vài chỗ, tôi còn nhìn rõ thấy dấu vết của những dụng cụ do những thợ mỏ thời xưa bỏ lại khi họ đào cái hầm này, các dấu vết còn rất rõ ràng và nguyên vẹn như mới có ngày hôm qua, tôi đi chập choạng từng bước một trong cái hành lang cổ xưa như trái đất; ngọn lửa yếu ớt của cây nến chỉ tỏa ra một vòng ánh sáng mập mờ quanh tôi, vào nó còn làm cho bóng tối đen đặc hơn, đáng sợ hơn. Cuối cùng, tôi đi tới một chỗ mà cái hành lang của người La mã đưa tới một cái hang rộng mênh mông do bị xói mòn, với những nhũ đá vôi tích tụ lại trông như cây nến dài. Từ căn phong trung tâm này, tôi nhận ra một cách mơ hồ rằng có nhiều hành lang do các suối ngầm tạo ra đã ăn sâu vào trong lòng trái đất. Tôi lưỡng lự: tôi nên quay trở lại hay cứ liều mạng bước tới trong cái mê cung hiểm nghèo này? Bỗng nhiên tôi cảm thấy dưới chân có một điều gì khác thường. Một phần lớn mặt đất trong hang được phủ những cục đá hay những tảng vôi. Nhưng ngay ở chỗ tôi đứng, cái vòm rất cao có nước nhỏ xuống làm thành một lớp bùn nhão. Và ở giữa lớp bùn này, tôi phát hiện ra một vết hằn sâu có bề mặt khá lớn; một vết hằn trong một vũng bùn hình thể không rõ ràng, sâu, rộng không đều đặn như kiểu một tảng đá lớn đã rơi xuống nơi này. Nhưng không có một tảng đá nào nằm quanh nơi này và tôi cũng không trông thấy điều gì có thể cho tôi biết về nguyên ủy của vết hằn. Nó rộng qua không thể do một con vật nào gây ra được; hơn nữa, nó là một vết duy nhất, cái vũng bùn không thể bằng một bước mà vượt qua được. Sau khi xem xét kỹ càng, tôi quay ra tìm hiểu bóng tối đen đặc vây quanh tôi, và tôi phải thú thật là trong một vài khoảnh khắc tim tôi đã đập nhanh hơn, và mặc dù tôi đã cố gắng giữ, cây nến vẫn cứ run lên trong bàn tay tôi. Sau đó, tôi lấy lại ngay can đảm, trong khi nghĩ ngợi rằng vết hằn này, cú theo hình dạng và tầm cỡ phi thường của nó, không thuộc về một con vật quen thuộc nào; ngay cả nó cũng quá lớn để cho là do một con voi đã gây ra. Do đó tôi quyết định là những nỗi lo sợ vu vơ không thể ngăn cản được việc tiếp tục cuộc thám hiểm của tôi. Trước khi đi vào xa hơn, tôi đã thận trọng ghi nhận một gờ đã được hình thành một cách kỳ lạ trên vách đá, gờ đá này sẽ giúp tôi nhận ra cửa vào của cái hành lang của người La mã. Đây là sự thận trọng cần thiết, vì cái hang lớn là giao điểm của rất nhiều hành lang. Sau khi đã ấn định các tiêu điểm, tôi kiểm soát lại số nến và diêm mang theo, và khi đã vững bụng, tôi thong thả tiếp tục tiến bước trên bề mặt gồ ghề lởm chởm đá của cái hang. Và bây giờ thì tôi gặp một trở ngại làm tôi vất vả, một con suối rộng chừng năm hay sáu thước chảy ngang qua đường đi của tôi; thoạt đầu tôi đi dọc theo nó trong ít lâu để cố tìm ra một chỗ đi qua nó mà không phải lội. Cuối cùng tôi đã nhìn thấy một tảng đá phẳng làm thành một chỗ cạn mà tôi có thể nhảy một bước là tới. Nhưng tảng đá đứng gập ghềnh trong dòng nước chảy đã nghiêng đi khi tôi đặt chân lên và tôi đã ngã xuống nước lạnh như băng. Cây nến tắt ngúm; tôi phải mò mẫm, bì bõm trong khoảng tối tăm mù mịt. Tôi đã đứng lên được, lòng thấy vui thích hơn là hoảng sợ vì sự rủi ro này. Cây nến đã tuột khỏi tay và bị nước suối cuốn đi. Nhưng tôi còn hai cây khác trong túi áo. Sự cố không có gì quan trong cả. Tuy nhiên, tới lúc tôi muốn châm cây nến thứ hai tôi mới cảm thấy hết sự khó khăn của hoàn cảnh này. Bao diêm đã ướt sũng sau khi tôi ngã xuống nước. Không thể đánh một que diêm nào ra lửa. Tôi có cảm giác như có một bàn tay bằng đá đề nặng lên trái tim tôi. Bóng tối đục mờ một cách khủng khiếp. Với sự cố gắng lớn lao, tôi tự trấn tĩnh và pháchọa lại trong ý nghĩ hình thể mặt đất của cái hang như tôi vừa nhìn thấy. Hỡi ôi, các tiêu điểm mà tôi có trong đầu lại ở khá cao trên các vách đá và tôi không thể tìm ra chúng bằng cách lấy tay sờ soạng. Tôi nhớ khá rõ ràng vị trí các vách của hành lang; do đó tôi hy vọng là bằng cách lần mò tôi cũng sẽ tới được lối vào hành lang của người La mã. Tôi bắt đầu cất bước di chuyển rất chậm chạp, luôn luôn va vào các vách đá. Tôi đã mau lẹ hiểu rằng cách thức này sẽ chẳng lợi ích gì. Trong bóng tối dày đặc của màn đêm, tôi đã mất hết mọi ý niệm về phương hướng. Sau khi đi chừng mười bước, tôi không còn biết mình đang ở chỗ nào. Tiếng nước vỗ ì oạp là âm thanh duy nhất tôi nghe thấy, nó chỉ rõ cho tôi biết con suối chảy nơi nào, nhưng từ lúc rời khỏi bờ suối tôi đã bị lạc đường. Tôi phải từ bỏ việc tìm đường trong bóng tối dày đặc. Tôi ngồi trên một tảng đá lớn và ngẫm nghĩ về cảnh ngộ nguy nan này. Không có ai biết về dự định cuộc thám hiểm của tôi, do đó có rất ít cơ hội để có một toán cứu hộ mạo hiểm vào trong hang Blue John. Tôi chỉ còn trông cậy vào khả năng của chính mình. Tôi ngồi trên một tảng đá lớn và ngẫm nghĩ về cảnh ngộ nguy nan này. Không có ai biết về dự định cuộc thám hiểm của tôi, do đó có rất ít cơ hội để có một toán cứu hộ mạo hiểm vào trong hang Blue John. Tôi chỉ còn trông cậy vào khả năng của chính mình. Khi tôi bị ngã xuống nước, chỉ có một nửa người tôi bị ướt thôi. Bên vai phải của tôi nằm trên mức nước nên vẫn khô. Tôi cầm lấy bao diêm và tôi đặt nó vào nách bên trái. Tác động của không khí ẩm ướt trong hang có thể đựợc hóa giải bằng hơi nóng thân thể tôi. Nhưng ngay cả trong trường hợp này, tôi cũng vẫn không có ánh sáng trong vài giờ đồng hồ. Tôi chỉ còn cách là phải đợi. May mắn là tôi đã nhét mấy cái bánh bích quy vào túi trước khi rời khỏi trang trại. Tôi nhai ngấu nghiến chúng bằng cách làm cho chúng ẩm đi với một ngụm cái thứ nước chết toi nàym vốn là nguyên nhân của tất cả mọi khốn khổ của tôi. Rồi tôi tìm ra một chỗ ngồi thoải mái hơn tỏng số các tảng đá. Sau khi lầnmò một lúc, tôi đã tìm thấy một chỗ mà tôi có thể dựa lưng vào. Tôi ngồi xuống và duỗi chân ra. Bị ướt đẫm và lạnh cứng người, tôi cố tự trấn an bằng cách nghĩ rằng khoa học hiện đại đã quy định cho căn bệnh của tôi những cửa mở bao gồm những cuộc tản bộ trong mọi thời tiết. Được ru ngủ bằng tiếng rù rì buồn tẻ của con suối, bị mệt lử vì màn đêm đen đặc, tôi đã đắm chìm vào một giấc ngủ đầy lo âu sợ hãi. Tôi đã ngủ bao lâu rồi? Tôi không biêt gì cả. Có lẽ là một giờ, có lẽ là nhiều giờ. Bỗng nhiên tôi ngồi nhỏm dậy, thần kinh căng thẳng và các giác quan tỉnh táo. Không còn nghi ngờ gì nữa, tôi đã nghe thấy một tiếng động. Một tiếng động hoàn toàn khác hẳn tiếng rù rì của nước. Tiếng động đã ngừng, nhưng tôi vẫn còn thấy âm vang trong tai tôi. Có phải đó là một toán cứu hộ không? Chắc hẳn là họ đã gọi lên; nhưng cái tiếng mà tôi vừa nghe, dù rất mơ hồ, không phát ra từ con người. Tim tôi đập thình thịch, tôi không dám thở mạnh... Lại tiếng động đó! Và lại nó nữa! Và lúc này nó trở nên liên tiếp. Có tiếng chân bước. Đúng, chắc chắn là tiếng chân bước của một sinh vật! Nhưng tiếng bước chân kỳ dị làm sao! Nghe tiếng bước chân này, tôi có cảm tưởng là một khối lượng đồ sộ được chống đỡ bằng những bàn chân xốp nhẹ nên sự di chuyển chỉ phát ra một tiếng động tắc nghẹn. Trong bóng tối mịt mùng, tiếng bước chân vẫn đều đặn rõ ràng. Và chắc chắn là nó đang hướng về phía tôi. Tôi thấy rợn tóc gáy, toàn thân tôi lạnh như băng. Vậy là có một con quái vật sống trong cái hang động lắm ngõ ngách này? Với sự mau lẹ trong bước đi của nó, chắc chắn là nó nhìn thấy trong đêm tối cũng rõ như lúc ban ngày. Tôi ngồi co rúm lại trên tảng đá. Tôi muốn làm cách nào chui sâu vào trong tảng đá. Những bước chân đi tới gần. Tôi nghe thấy chúng dừng lại. Rồi tôi đoán phỏng chừng rằng con vật dừng lại để uống nước trong suối. Rồi sự yên lặng trở lại, nó chỉ bị ngắt quãng bởi những tiếng khụt khịt và tiếng thở phì phò khủng khiếp. Con quái vật có ngửi thấy tôi không? Lỗ mũi tôi đã bắt đầu ngửi thấy một mùi nặng nề hôi thối độc hại. Những bước chân lại vang lên trong bóng tối, lần này thì ở mạn bờ suối mà tôi đang ngồi. Cách chỗ tôi vài thước, những hòn đá lăn đi, bị nghiền vỡ và kêu lách cách. Không dám thở mạnh nữa, tôi cố thu nhỏ thân mình lại được chừng nào hay chừng ấy. Rồi những bước chân xa dần. Tôi nghe thấy những tiếng ì oạp lớn của nước khi con vật lội qua suối, sau đó những bước chân im bặt trong khoảng xa ở hướng mà chúng đã vọng lên. Tôi đã ngồi rất lâu trên tảng đá, bị kinh hoàng đến nỗi không nhúc nhích được. Tôi nghĩ tới tiếng động phát ra từ những hố thẳm của cái hang, tới sự sợ hãi của Armitage, tới vết hằn trong vũng bùn. Sau hết, tôi đã có chứng cớ hẳn hoi là có một con quái vật ngoài sức tưởng tượng sống trong hang, nó không giống bất cứ một con vật nào mà ta biết trên mặt đất; và nó ẩn náu trong lòng núi. Nói về tính chất hay hình dạng của nó, tôi không thể hình dung được nó thế nào; tôi chỉ biết rằng con vật khổng lồ này có những bước chân nhẹ nhàng. Giữa lý trí và các giác quan của tôi đã có một cuộc đấu tranh. Lý trí của tôi nói rằng, những con quái vật loại này không thể có trên đời và các giác quan của tôi lại nói rằng những con vật đó có thật hòan toàn. Rút cục lại, tôi cảm thấy sẵn sàng chấp nhận rằng chuyến mạo hiểm này chỉ là một cơn ác mộng và cho rằng tình trạng bệnh hoạn của tôi có thể gây ra một ảo giác. Nhưng một sự cố sau cùng đã sớm xua tan ngay khỏi tâm trí tôi mọi khả năng nghi ngờ. Tôi lấy những que diêm trong nách ra, sờ tay vào thấy chúng đã khô hẳn. Tôi cúi xuống chỗ khe hở giữa các tảng đá và bật thử một que. Trước nỗi vui mừng của tôi, nó đã bật thành lửa ngay nhát quẹt thứ nhất. Tôi đốt một cây nến, không khỏi nhìn về sau lòng đầy kinh hãi, tôi vội vàng bước về phía hành lang của người La mã. Trên đường đi, tôi đứng lặng người đi, không phải chỉ có một vết thôi, mà những ba vết. Ba vết lõm giống nhau, cùng một kích cỡ khủng khiếp, cùng một đường nét không rõ ràng, cùng một chiều sâu chứng tỏ cái khối nặng đã tạo ra chúng. Một sự kinh hoàng khó tả tràn ngâp lòng tôi. Cúi gập người xuống, lấy bàn tay che cây nến, tôi chạy thẳng đến bậc thềm cửa hang Blue John. Mệt đứt hơi, tôi nằm vật xuống đám cỏ tươi, dưới ánh sáng thân thương của những ngôi sao. Khi tôi về tới trang trại thì đã ba giờ sáng. Hôm nay, tôi vẫn còn run rẩy toàn thân. Tôi không nói gì cả. Tôi phải xử sự một cách dũng cảm. Nếu tôi kể lại cuộc mạo hiểm của tôi cho những người đàn bà yếu đuối cô đơn hay cho những người nông dân quê mùa thì có trời mới biết được là họ sẽ phản ứng ra sao? Tôi chỉ nói với người nào có thể hiểu được tôi thôi. 25 tháng tư – trong hai ngày liền tôi đã không rời khỏi giường nằm, một cuộc mạo hiểm không thể tin được. Tôi dùng tính từ này là có dụng ý. Từ sau chuyến đi thám hiểm hang Blue John tôi đã trải qua một kinh nghiệm cũng khiến cho tôi hoang mang gần như việc phát hiện ra con quái vật vậy. Tôi đã nói là tôi sẽ tim quanh quẩn nơi đây, một người nào có thể hiểu được tôi và giúp đỡ ý kiến cho tôi. Có một ông bác sĩ đang hành nghề cách đây vài cây số tên là Mark Johnson, và giáo sư Saunderson đã giới thiệu tôi với ông. Khi cảm thẩy đủ khỏe khoắn để thực hiện một chuyến đi bằng xe hơi, tôi liền tới nhà ông và kể cho ông nghe tất cả câu chuyện của tôi. Ông đã nghe tôi nói với sự chăm chú đặc biệt. Sau đó ông đã khám bệnh hết sức kỹ càng cho tôi, nhưng chỉ đưa cho tôi tấm danh thiếp của một ông Picton nào đó ở Castlenton, khuyên tôi nên tới gặp ông đó ngay tức thì, và bảo tôi hãy thuật lại chính xác những sự việc mà tôi vừa mô tả xong. Theo ý ông bác sĩ này thì ông Picton mới thực sự là người mà tôi cần tới. Thế là tôi đi theo hướng nhà ga và đi xe lửa tới cái thành phố nhỏ cách xa chừng mười lăm cây số. Chắc là ông Picton phải có một địa vị rất quan trọng, vì tấm biển đồng của ông ấy được gắn trên cái của một tòa nhà lớn ở ngoại ô thành phố. Tôi đang sắp bấm chuông thì một linh cảm đã ngăn bàn tay tôi lại. Tôi đi sang bên kia đường, và hỏi thăm một người bán hàng. Tôi hỏi ông ta: “Ông có thể vui lòng cho tôi biết ông Picton là ai không ạ?” – “Được chứ! Đó là một bác sĩ tâm thần hay nhất ở Derbyshire, và ông ấy trông coi cái nhà thương điên mà ông nhìn thấy kia kìa”, người bán hàng trả lời tôi. Chắc ai cũng đoán được là tôi đã vội vàng rời khỏi Castleton như thế nào. Tôi quay về trang trại, dọc đường không khỏi chửi thầm những gã bụng đầy chữ nghĩa nhưng thiếu óc tưởng tượng, không thể quan niệm được trong thiên nhiên một thứ gì khác ngoại những vật mà chính họ nhìn thấy bằng cặp mắt thiển cận của họ. Dù sao lúc này tôi cũng đã bình tĩnh hơn, tôi nhận thấy là bác sĩ Johnson đã không dành cho tôi một niềm tin lớn hơn niềm tin mà tôi đã dành cho Armitage. 27 tháng tư – Khi còn là một sinh viên tôi đã nổi tiếng là can đảm và liều lĩnh. Tôi nhớ trong một lần đi rình ma ở Coltbridge, chính tôi đã tự ý ở lại trong cái nhà có ma. Có phải tại vì tôi đã có tuổi (tuy nhiên tôi mới có 35 tuổi) hay vì tôi bị đau ốm khiến cho các đức tính thuở xưa bị cùn nhụt? Nói tóm lại, chỉ nguyên việc nghĩ tới cái hang khủng khiếp ở trong núi và khi tôi tự nhủ rằng cái hang đó có một con quái vật là tim tôi đã ngừng đập rồi. Tôi sẽ làm gì đây? Không một giờ phút nào mà tôi không tự đặt ra câu hỏi này. Nếu tôi không nói gì thì sự bí ẩn cứ còn nằm nguyên đó. Nhưng nếu tôi nói ra thì tôi sẽ bị đặt trước hai khả năng, một là người ta sẽ cho tôi là một thằng điên và người ta sẽ nhốt tôi lại, hai là tôi sẽ làm cho cả vùng quê kinh động. Nói tóm lại, tôi nghĩ tốt hơn hết là tôi hãy chờ đợi, và chuẩn bị một chuyến thám hiểm có chuẩn bị kỹ hơn và cũng hữu hiệu hơn lần trước. Những việc thu xếp đầu tiên đã đưa tôi tới Castleton, tôi mua sắm những vật dụng cần thiết: một cái đèn khí đá tốt và một khẩu súng săn hai nòng lớn. Tôi đã thuê khẩu súng này, nhưng đã mua hơn một chục viên đạn để săn thú lớn, những viên đạn này bắn chết được cả tê giác. Bây giờ tôi cảm thấy đã sẵn sàng để đương đầu với anh bạn quái vật trong hang sâu. Nếu tôi có sức khoẻ tốt hơn và nếu tôi có một sự đột khởi về nghị lực, chắc tôi sẽ mau chóng kết thúc được vụ này. Nhưng vụ này liên quan tới ai, hay tới cái gì đây? À, đây là một vấn đề làm tôi không ngủ được. Bao nhiêu là giả thuyết đã hiện ra trong đầu tôi và tôi đã gạt đi hết cái này tới cái nọ. Tất cả đều không thể xảy ra được! Nhưng cái tiếng kêu, cái vết hằn lõm những bước chân trong hang, tôi buộc lòng phảI nhìn nhận chúng là những sự thật. Tôi nghĩ tới những con rồng trong huyền thoại cổ xưa. Phải chăng, những con quái vật đó tồn tại ở những nơi khác bên ngoài truyện thần tiên? Có thể nào mà tôi, một người trong giữa muôn người, lại được số mệnh định cho việc phát hiện ra sự sinh tồn có thực của chúng? 3 tháng năm – Tôi nằm ỳ trên giường trong nhiều ngày vì những biến chuyển thất thường của mùa xuân ở nước Anh, và trong thời gian đó một vài sự cố đã xảy ra; ngoài tôi ra không ai có thể cảm nhận được bản chất thật sự của nó. Tôi xin nói thêm rằng, chúng tôi đã có những đêm đầy mây mù và không có trăng; và theo điều người ta nói với tôi thì trong những đêm ấy, những con cừu đã biến mất dạng. Đúng thế, những con cừu đã hoàn toàn biến dạng. Hai con thuộc về chị em nhà Allerton, một con là của ông già Pearson, và một con khác là của bà Mourton. Bốn con trong ba đêm. Chúng không để lại một dấu vết nào cũng không nơi nào người ta thấy những gã bụi đời và những tên ăn trôm gia súc. Nhưng còn việc quan trọng hơn nữa – Anh thanh niên Armitage cũng mất tích luôn. Khoảng chập tối hôm thứ tư, anh ta rời khỏi nhà ở ngoài cánh đồng và từ đó không ai nghe thấy nói tới anh ta nữa. Vì đó là một người không có họ hàng thân thích nên sự mất tích của anh ta chỉ khơi lên một nỗi xúc động vừa phải. Những kẻ lắm chuyện thì nói rằng anh ta mắc nợ, đã kiếm được việc làm ở nơi khác và sẽ mau chóng cho biết tin về mình, dù là chỉ để thu nhặt những thứ còn bỏ lại trong ngôi nhà cũ. Nhưng tôi thì lại có những linh cảm khác đáng sợ hơn. Rất có thể là sự mất tích của những con cừu đã thúc đẩy anh ta lao mình vào một cuộc mạo hiểm gây ra sự mất tích của anh ta. Chẳng hạn như anh ta đã rình con quái vật và nó đã bắt được anh ta, lôi anh ta tới một xó xỉnh hóc hiểm trong đáy sâu của dãy núi thì sao? Thật là một số phận không thể tưởng tượng được cho một người dân văn minh của nước Anh ở thể kỷ hai mươi này! Không thể tưởng tượng đựoc nhưng tôi thì đoán rằng nó có thể xảy ra và ngay cả nó đã là một sự thật, trong vụ này chỉ có một điều là tôi phải chịu trách nhiệm đến bao nhiêu về cái chết của anh ta? Tôi sẽ chịu trách nhiệm đến mức độ nào về sự bất hạnh khác có thể sắp xảy ra? Tôi không được phép nghi ngờ nữa; ý thức được những điều mình đã biết, tôi không thể lảng tránh; bổn phận của tôi là phải tự đảm bảo với mình rằng phải làm một điều gì đó và nếu cần thì chính bản thân tôi sẽ làm việc này được rồi. Tôi không còn sự lựa chọn nào khác. Sáng hôm nay tôi tới Ty cảnh sát để thuật lại câu chuyện của tôi. Viên thanh tra đã ghi chép vào một quyển sổ lớn, ông ta đã chào tôi một cách vô cùng trịnh trọng; nhưng ngay sau khi tôi khép cửa lại thì tôi đã nghe thấy những tiếng cười lớn. Chắc hẳn ông ta đã chế nhạo sự ngây thơ của tôi. Tôi sẽ tự xoay sở một mình vậy. 10 tháng sáu – Tôi viết tiếp cuốn nhật ký này trên giường nằm, sau sáu tuần ngưng viết. Tôi đã bị một cú sốc khủng khiếp cả về tinh thần lẫn thể xác, sau một cuộc mạo hiểm mà người ta rất hiếm khi phải trải qua. Nhưng ít nhất tôi cũng đã đạt tới mục đích mà tôi tự đặt ra cho mình. Sự hiểm nguy phát sinh từ con quái vật ở hang Blue John đã được loại trừ vĩnh viễn. Đây là một việc mà tôi, một kẻ tật bệnh sắp hết hơi, đã hoàn thành cho xã hội. Tôi xin thuật lại một cách hết sức rành mạch những điều đã xảy ra. Hôm thứ sáu., mồng 3 tháng năm, đêm tối như mực. Đây là một đêm lý tưởng cho sự xuất hiện của con quái vật. Vào lúc mười một giờ đêm, tôi rời khỏi trang trại, mang theo cái đèn khí đá và khẩu súng, sau khi để lại trên bàn trong phòng một mảnh giấy ghi lại là nếu sự vắng mặt của tôi kéo dài thì phải tìm tôi ở hang Blue John. Tôi đi tới lối vào của cửa vòm kiểu La mã. Tôi khôm mình trên một tảng đá dốc nghiêng chỗ lối vào, tôi tắt đèn đi và ngồi rình, khẩu súng đã nạp đạn cầm sẵn trong tay. Một phiên gác buồn nẫu ruột! Trên các sườn đồi, tôi nhận ra những ánh đèn của các trang trại rải rác ở đó đây. Chuông của giáo đường Chapel – le – Dale điểm từng giờ một cách yếu ớt. Những biểu hiện sự có mặt ở xa xôi của các đồng bào của tôi chỉ làm tăng thêm cảm giác cô đơn thay vì thúc ép tôi phải khắc phục nỗi kinh hoàng làm cho tôi muốn quay về trang trại và dứt khoát từ bỏ việc này. Nhưng mỗ người chúng ta đều có lòng tự trọng nằm sâu trong tâm khảm, lòng tự trọng này chống lại việc bỏ dở một công cuộc vừa mới bắt đầu. Cảm nhận về lòng kiêu hãnh cá nhân đã giúp đỡ tôi rất nhiều, chỉ nhờ vào một mình nó mà tôi đứng vững được trong khi tất cả mọi bản năng của tôi đều xui tôi bỏ trốn. Lúc này tôi rất sung sướng đã có được sức mạnh ấy. Bất kể những gì nó bắt tôi phải trả, phẩm cách người của tôi đã không có gì để phải xấu hổ. Chuông đã điểm nửa đêm. Rồi một giờ. Hai giờ. Đây là lúc tối nhất của một đêm. Những đám mấy thấp bay bên trên mặt đất. Trên trời không có một ngôi sao. Ở một nơi nào đó trên các ghềnh đá, một con cú rúc lên, tiếng thở dài êm dịu cách quãng của gió là tiếng động duy nhất mà tai tôi thu nhận được, rồi thì bỗng nhiên tôi nghe thấy nó! Từ đằng xa, ở phía dưới, trong cái hang vang lên tiếng chân như bị tắc nghẹn của con vật, bước chân vừa nhẹ nhàng vừa nặng nề. Tôi cũng nghe thấy tiếng những hòn đá lăn đi khi con quái vật dẫm chân lên. Những bước chân đã tới gần. Con vật đã tiến tới rất gần chỗ tôi. Tôi nghe thấy tiếng các bụi cây kêu lắc rắc khi bị con vật rẽ ra và làm gãy nát chung quanh lối vào; rồi một cách lờ mờ trong bóng tối tôi nhận ra một khốI đồ sộ một loại thú không ra hình dạng gì, kỳ quái, từ trong hang chui ra một cách mau lẹ và yên lặng. Sự sợ hãi và kinh hoàng làm tê kiệt cả người tôi. Tuy là tôi đã ngồi rình rất lâu, nhưng đứng trước con quái vật, tôi trở thành bất động, không còn chút sức lực nào. Con vật cứ tiến tới, nó đi qua gần sát chỗ tôi và nó đã biến mất trong màn đêm. Tôi chuẩn bị hết can đảm để đợi lúc nó trở về. Trong làng quê đang ngon giấc ngủ, không một tiếng động nào phát lộ sự hiện diện của nó. Tôi không tài nào ước tính được khoảng cách mà nó đang đứng hay đoán được nó đang làm gì, hay tính được giờ phút nó trở về hang. Nhưng tôi đã thề là cân não của tôi sẽ không chùn lại lần thứ hai tôi đặt khẩu súng đã nạp đạn lên trên các tảng đá. Chuông đã điểm nửa đêm. Rồi một giờ. Hai giờ. Đây là lúc tối nhất của một đêm. Những đám mấy thấp bay bên trên mặt đất. Trên trời không có một ngôi sao. Ở một nơi nào đó trên các ghềnh đá, một con cú rúc lên, tiếng thở dài êm dịu cách quãng của gió là tiếng động duy nhất mà tai tôi thu nhận được, rồi thì bỗng nhiên tôi nghe thấy nó! Từ đằng xa, ở phía dưới, trong cái hang vang lên tiếng chân như bị tắc nghẹn của con vật, bước chân vừa nhẹ nhàng vừa nặng nề. Tôi cũng nghe thấy tiếng những hòn đá lăn đi khi con quái vật dẫm chân lên. Những bước chân đã tới gần. Con vật đã tiến tới rất gần chỗ tôi. Tôi nghe thấy tiếng các bụi cây kêu lắc rắc khi bị con vật rẽ ra và làm gãy nát chung quanh lối vào; rồi một cách lờ mờ trong bóng tối tôi nhận ra một khốI đồ sộ một loại thú không ra hình dạng gì, kỳ quái, từ trong hang chui ra một cách mau lẹ và yên lặng. Sự sợ hãi và kinh hoàng làm tê kiệt cả người tôi. Tuy là tôi đã ngồi rình rất lâu, nhưng đứng trước con quái vật, tôi trở thành bất động, không còn chút sức lực nào. Con vật cứ tiến tới, nó đi qua gần sát chỗ tôi và nó đã biến mất trong màn đêm. Tôi chuẩn bị hết can đảm để đợi lúc nó trở về. Trong làng quê đang ngon giấc ngủ, không một tiếng động nào phát lộ sự hiện diện của nó. Tôi không tài nào ước tính được khoảng cách mà nó đang đứng hay đoán được nó đang làm gì, hay tính được giờ phút nó trở về hang. Nhưng tôi đã thề là cân não của tôi sẽ không chùn lại lần thứ hai tôi đặt khẩu súng đã nạp đạn lên trên các tảng đá. Thế mà suýt nữa tôi đã để dịp may qua khỏ. Tôi đã hoàn toàn không nghe thấy tiếng con vật đi qua đồng cỏ. Bốn nhiên tôi nhận ra thân hình đò sộ của nó đáng đi về phía cửa hang. Một sự suy giảm lần nữa về ý chí đã ngăn cản tôi bóp cò súng, tôi phảI cố gắng hết sức mình đề động đậy ngón tay trỏ. Trong khi các bụi cây đang bị dập nát bởI bước chân của con vật (nó đã lẫn lộn với bóng tối của lỗ hang) thì tôi nổ súng. Dưới tia sáng loè của phát súng, tôi nhìn thấy một khối lớn có lông dài rậm rạp, màu xám của lông chuyển thành màu trắng ở phần bên dưới thân mình nóm phần này tận cùng bằng những cái chân cong queo, to lớn. Tôi chỉ nhìn thấy nó trong khoảng khắc một ánh chớp. Rồi nghe thấy tiếng những hòn đá lăn lộc cộc, con quái vật rút lui vào trong hang ổ của nó. Ngay tức thì, bởi một sự chuyển biến phấn khởi trong tâm trạng, tôi gạt bỏ được hết nỗi sợ sệt, gỡ tấm che chiếc đèn khí đá ra, tôi nhảy ra khỏi tảng đá và khẩu súng lăm lăm trong tay, tôi tiến sâu vào hành lang của người La mã, đuổi theo con quái vật. Cái đèn khí đá chiếu ra trước mặt tôi một tia sáng mạnh không thể so sánh một chút nào với ánh lửa vàng lập loè của cây nến đã dẫn đường cho tôi mười hai ngày trước đây trong cùng một vòm cong này. Trong khi tôi chạy, tôi nhìn thấy con quái vật đang lảo đảo trốn tránh; cái thân mình đồ sộ của nó choán hết chỗ trống giữa các vách đá, lông nó giống như dây gai thô và rủ suống từng búi lớn xoắn vào nhau và đung đưa theo mỗi bước chân; ta có thể nói là bộ lông không bị cắt xén của một con cừu khổng lồ, nhưng rõ ràng là nó lớn như một con voi và nó có vẻ vừa to vừa cao. Tôi vẫn còn sững sờ khi tôi nghĩ rằng tôi đã dám săn đuổi một con quái vật như thế này vào tận lòng trái đất; nhưng khi máu đã nóng lên và khi con mồi đang tìm cách tẩu thoát thì cái bản năng cố hữu của người thợ săn đã trỗi dậy và xin chào giã biệt sự khôn ngoan! Thề là với khẩu súng trong tay, tôi chồm theo con quái vật với hết cả tốc độ của đôi chân. Tôi nhận thấy nó nhanh nhẹn dị thường. Nhưng rồi tôi cũng nhận thấy một cách băng khoăn lo ngại là nó không kém phần quỷ quyệt. Tôi tưởng là nó chạy trồn vì bị kinh hoàng và bây giờ tôi chỉ việc đuổi theo thôi. Không một giây phút nào mà tôi không nghĩ là nó có thể quay lại và lao vào tôi. Ở đoạn trên, tôi đã nói rõ là cái hành lang của ngườI La mã dẫn tới một cái hang lớn chính giữa. Tôi vội vã chạy tới đó, đầu óc bị lởn vởn nỗi lo sợ làm mất dấu vết con quái vật. Nhưng con quái vật đã quay lại, và tôi với nó đứng đối mặt nhau. Cảnh tượng này được soi sáng một cách mãnh liệt bởi ngọn đèn khí đá, nó sẽ còn mãi mãi khắc sâu trong ký ức của tôi. Con quái vật đứng thẳng lên bằng hai chân sau như một con gấu và nó khom xuống phía trên đầu tôi, to lớn và đầy đe dọa; không một ác mộng nào có thể hình dung được nó. Tôi đã nói là nó khom xuống như một con gấu, thật sự trong dáng vẻ của nó cũng có một vài nét của con gấu (khi ta chấp nhận rằng có thể có một loại gấu mười lần lớn hơn một con gấu thường), trong những cái bàn chân trước quắp lại với những cái móng trắng như ngà của nó, trong bộ lông bù xù trong cái mõm đỏ há hốc ra lởm chởm những cái răng gớm ghê. Chỉ có một điểm làm nó khác với con gấu hay bất kể một con vật nào sống trên mặt đất, khi phát hiên ra điều này, tôi run rẩy khắp tứ chi, cặp mắt long lanh trước ánh đèn của tôi là những cục tròn lớn, lồi ra, trắng bệch và không có thị giác. Trong một vài giây, nó lắc lư những bàn chân to lớn của nó trên đầu tôi. Rồi ngã về phía trước đè lên người tôi, cả tôi và cái đèn đều bị đè gí trên mặt đất và tôi không còn nhớ được gì nữa. Khi tôi tỉnh lại thì thấy mình đang ỏ trong trang trại của gia đình Allerton. Hai ngày đã trôi qua kể từ cuộc mạo hiểm khủng khiếp của tôi trong hang Blue John. Hình như tôi đã nằm bất tỉnh suốt đêm trong cái hang, sau vụ chấn thương với những chỗ gãy nguy hiểm ở cánh tay trái và hai cái xương sườn. Sáng ra, hai chị em nhà Allerton phát hiện ra mảnh giấy của tôi, độ hơn một chục tá điền đã họp nhau lại, lần theo dấu vết của tôi và tôi đã được đưa về phòng mình trong cơn mê sảng dữ dội. Họ không tìm thấy một vết tích nào chứng tỏ sự hiện diện của con quái vật, họ không tìm thấy vết máu chứng tỏ rằng viên đạn của tôi đã bắn xuyên qua mình nó. Ngoài các thương tích của tôi và những hằn sâu trên vũng bùn, không có gì chứng minh cho những lời nói của tôi. Sáu tuần lễ đã trôi qua, và tôi đã có thể đi ra bên ngoài ngồi phơi nắng. Ngay trước mặt tôi là một cái sườn đồi màu xám xịt, và tôi phân biệt được cái khe hở đen làm dấu cho miệng hang Blue John. Nhưng lỗ hang này không còn là nguồn gốc sự kinh hoàng nữa. Không bao giờ còn con quái vật từ cái hành lang gơm ghiếc này xông ra thế giới của con người, nhưng đầu óc trí thức, những nhà bác học, bac sĩ Johnson và rất nhiều người khác chắc sẽ mỉm cười khi đọc bài tường thuật của tôi. Nhưng các dân quê vùng lân cận không bao giờ nghi ngờ sự thật của câu chuyện này. Sau khi tôi có thể nói được một ngày, họ đã tụ tập vài trăm người chung quanh hang Blue John. Tôi đọc tờ báo Castleton Courier. “Đặc phái viên của chúng tôi và các vị có nhiệt tâm tới từ Matloc Buxton, v.v…, đã hoài công tự hứa là sẽ đi xuống cái hang để thám hiểm đến nơi đến chốn, với ý định là kiểm chứng sự xác thực của câu chuyện giật gân của bác sỹ James Hardcastle. Những người trong khu vực đã đảm đương vụ này và ngay từ lúc sáng tinh mơ họ đã làm việc một cách cực nhọc để lấp kín cái hang Blue John. Cái hang chạy vào một hành lang dốc và những hòn đá lớn được một số đông người tình nguyện chở tới đã được quăng vào bên trong cho tới khi miệng hang bị bít kín. Đó là chương cuốI cùng của câu chuyện đã làm say mê cả nước. Dư luận ở địa phương vẫn còn bị chia rẽ kịch liệt. Ở một bên thì có nhiều người nêu lên tình trạng sức khoẻ yếu kém của bác sỹ Hardcastle và họ nói rằng, các vết thương trong não bộ có nguồn gốc từ bện lao đã có thể sinh ra những ảo giác kỳ quái, cũng theo các giới chức này, một ý tưởng mạnh mẽ đã có thể dẫn dắt vị bác sỹ đi vào trong hang, và chỉ một cái ngã mạnh cũng thành nguyên nhân các vết thương của ông. Về phía bên kia thì cái truyền thuyết về con quái vật sống trong hang đã được lan truyền rất lâu trước khi bác sĩ Hardcastle tới vùng này, những tá điền cho rằng truyền thuyết này được làm vững thêm bởi câu chuyện của vị bác sĩ cũng như bởi các vết thương của ông, Sự việc này sẽ còn nguyên ở chỗ đó, vì người ta không biết làm thế nào để có một giải pháp dứt khoát vào lúc này. Trước khi bài báo này được ấn hành, lẽ ra tờ báo ấy phải khôn ngoan một chút để gởi thông tín viên của họ tới gặp tôi. Tôi đã suy nghĩ về vụ này nhiều hơn bất cứ ai khác, và không nghi ngờ gì lẽ ra tôi đã có thể làm sáng tỏ một cách có khoa học sự bí mật vẫn còn tồn tại trong dân chúng. Ở đây, tôi chỉ đưa ra lời giải thích duy nhất mà tôi thấy là có thể làm sáng tỏ được tất cả mọi việc. Giả thuyết của tôi có thể có vẻ không xảy ra được dù sao thì cũng không có ai lại liều lĩnh mà cho rằng nó không thể xảy ra. Tôi tin rằng (và tờ báo cũng vạch ra rằng quan điểm của tôi đã được hình thành từ trước lúc khởi sự các cuộc mạo hiểm cá nhân của tôi) trong phần đất này của nước Anh có một cái biển ngầm tiếp nhận nước từ vô số những con suối chảy lòng vòng và biến dạng trong núi đá vôi nơi nào có khối dự trữ mưốc quan trọng thì cũng sinh ra sự nước bốc thành hơi, và có sương mù hay mưa; do đó có khả năng sinh ra cây cỏ. Lập luận này lại gợi ý rằng một đời sống động vật có thể phát sinh theo kiểu đời sống thực vật, những dòng giống và những chủng loại xuất hiện lúc khởi đầu lịch sử thế giới, khi sự giao tiếp với không khí bên ngoài còn dễ dàng hơn. Do đó ở nơi này, những động vật và thực vật đặc biệt đã phát sinh, bao gồm cả những quái vật mà tôi đã nhìn thấy: có thể là một con gấu già ở các hang động đã đượclàm to hơn và biến đổi hình dạng rất nhiều vì môi trường mới của nó. Trong những khoảng thời gian dài vô tận, hai loại sinh vật, một loại ở bên trong và một loại ở bên ngoài đã sống riêng biệt sinh trưởng một cách đều đặn ở cách xa nhau. Rồi một khu vực nào đó đá xuất hiện trong đáy sâu thẳm của núi, khe nứt này đã để cho một trong số các con quái vật đó leo lên phía mặt đất, và nhờ vào các đường hầm của người La mã thở hít được không khí trong lành. Giống như tất cả các loài sinh vật sống bên dưới mặt đất, con quái vật cũng mất thị giác, nhưng sự tật nguyền này chắc chắn đã nhận được của tạo hóa những đền bù ở các phương diện khác. Nhất định là nó đã có một phương tiện để định hướng đi và để săn bắt những con cừu trên các sườn núi. Còn về cái sở thích của nó đối với các đêm tối mịt, thì giả thuyết của tôi cho rằng ánh sáng đã làm cho nó rất đau đớn và con quái vật chỉ thích hợp với một thế giới tối đen như mực. Có lẽ cái đèn khí đá của tôi đã cứu sông tôi khi tôi và nó đứng đối mặt nhau. Đây là cách thức mà tôi giải bài toán hiểm hóc. Tôi trao lại các sự kiện này cho hậu thế; nếu bạn có thể giải thích được các sự kiện này, xin đừng bỏ qua chúng; nếu bạn nhún vai cũng không sao. Cả sự hoài nghi lẫn sự tán thành của bạn đều chẳng thay đổi được các sự việc và càng không thể gây ảnh hưởng tới một người mà sứ mệnh trên cõi đất này đã sắp chấm dứt. Đó là câu chuyện ly kỳ của bác sĩ James Hardcestle. Hết
Bạn có thể dùng phím mũi tên
hoặc WASD để
lùi/sang chương