Xuyên Thành Nha Hoàn Của Nữ Chính, Ta Nằm Yên Làm Giàu
Chương 57
Nói là tại Lục Cẩm Dao đến chính viện nói với Trịnh thị chuyện Cố Kiến Châu phải đi nên bà mới phát bệnh, nhưng Khương Đường lại cảm thấy không chỉ bởi vì Cố Kiến Châu.
Khương Đường đột nhiên nhớ tới Cố Kiến Sơn, trong tiểu thuyết không miêu tả hắn nhiều lắm, không phải ở Tây Bắc thì chính là quân doanh.
Tòng quân từ bé, những ngày trở về có thể đếm trên đầu ngón tay.
Không phải cứ rời đi là chắc chắn có thể trở về được, có lẽ tới tận bây giờ Cố Kiến Sơn vẫn chưa về, Trịnh thị không biết lần sau gặp lại liệu là xa cách lâu ngày không gặp hay mãi mãi bị chia cắt đây nữa.
Khương Đường thở dài trong lòng, có lẽ cũng là nhàn quá sinh bệnh.
Bây giờ Hàn thị quán xuyến việc nhà, Lục Cẩm Dao hỗ trợ. Lục Cẩm Dao có năng lực như nào không phải Khương Đường không biết, Trịnh thị chẳng phải không có việc làm, con người một khi rảnh rỗi sẽ suy nghĩ lung tung.
Hồi vừa tới, buổi tối Khương Đường ngủ không ngon, luôn mơ thấy ngày nào đó sẽ bị đuổi tới thôn trang, sau này bận rộn thì đỡ hơn. Mãi cho đến khi Cố Kiến Thủy dẫn theo Nguyệt Nương về nàng cũng chưa mơ thấy vậy nữa.
Chạng vạng, Trịnh thị có tỉnh dậy một hồi, Khương Đường bưng cháo đi vào, Nam Hương muốn đút cháo cho Trịnh thị uống nhưng Trịnh thị lại phất phất tay, quay lưng lại với mọi người.
Nam Hương liếc mắt nhìn Khương Đường một cái, mặt lộ vẻ khó xử.
Lúc này Vĩnh Ninh hầu vẫn chưa về, ngoại trừ Lục Cẩm Dao thì mấy đại nương tử các phòng khác đều ở đây.
Hàn thị bưng bát: “Mẫu thân, ăn miếng cháo lót dạ đi.”
Trịnh thị hơi thở mong manh nói: “Ta không đói bụng, bưng đi đi.”
Hàn thị ngồi ở mép giường: “Này là cháo mới nấu, mùi thơm lắm, mẫu thân nếm thử đi.”
Trịnh thị bất động như cũ.
Hứa thị với Vân thị đứng một bên, giống hai cái đầu gỗ, Hàn thị liếc mắt ra hiệu, hai người đồng loạt lắc đầu.
Xưa giờ hầu bệnh là nhiệm vụ của nha hoàn hầu hạ, căn bản không cần các nàng phải làm gì, các nàng làm sao biết hầu hạ người khác chứ.
Hàn thị trả bát lại: “Ra ngoài hết đi, cả đám người chen chúc trong này ngộp muốn chết.”
Buổi trưa đã ăn cơm rồi nên có lẽ bây giờ chưa đói bụng.
Khương Đường đi theo ra ngoài, tới cửa, nàng nói: “Đại nương tử, không ấy để nô tỳ thử xem.”
Hàn thị chỉ có thể chữa ngựa chết thành ngựa sống: “Nếu không muốn ăn thật thì thôi đi, hồi trưa mới ăn cơm rồi, không ăn thì chờ lát nữa cũng được.”
Khương Đường gật gật đầu: “Nô tỳ đã hiểu.”
Khương Đường bưng khay lặng lẽ đi vào, nàng đặt cháo lên bàn nhỏ, quấy một chút lòng đỏ trứng vịt muối vào trong cháo, rồi rải chút tôm khô, sau đó bưng chén ngồi xổm bên mép giường.
“Phu nhân, hột vịt muối này được ủ trong bùn đỏ, từng hột được chọn lựa kỹ lưỡng, sau khi nấu chín cắn nhẹ một cái lòng đỏ bên trong sẽ chảy ra. Không phải vị khô ráp mà là mềm mại, chỉ nhìn thôi đã thấy ngon. Còn có tôm khô này nữa, đây là ngư dân phía đông phơi, toàn là tôm nhỏ, tươi mất, quấy…”
Trịnh thị không thể nhịn được nữa: “Đi ra ngoài!”
Khương Đường nói xong lời còn chưa nói hết: “Cháo ăn thơm nhất.”
Cơ thể Trịnh thị run rẩy, ở nơi người khác không nhìn thấy, gối đầu đã ướt một mảng lớn.
Bà mím môi, đưa tay lau khô nước mắt, bấy giờ mới chậm rãi ngồi dậy: “Hắn đâu có nhớ ta… về chưa tới một tháng đã đi tiếp rồi.”
Lời này vốn không nên nói với một nha hoàn là Khương Đường, nhưng Trịnh thị không biết nói cùng ai.
Trước kia bà đã từng nói với Vĩnh Ninh hầu, nhưng ông lại nói nam nhân chí ở tứ phương, người khác còn mong được ra sức vì nước. Vĩnh Ninh hầu lấy Cố Kiến Sơn làm vinh, cảm thấy trong năm nhi tử, Cố Kiến Sơn giống ông nhất.
Căn bản không quan tâm hắn phải chịu bao nhiêu khổ đau.
Càng không thể nói với đám Hàn thị, trong mấy nhi tử người có tiền đồ nhất là Cố Kiến Sơn, tất cả mọi người đều mong bà có thể xử lý mọi việc công bằng, chứ làm sao hiểu được tâm tư lo lắng sợ hãi cho ấu tử của bà.
Con dâu chỉ là con dâu, hiếu thảo là lời ngoài miệng thôi.
Bọn nha hoàn cũng không nói được, một người là chủ tử một người là nô tài, hai nữ nhi thì gả chồng từ lâu rồi, một đứa gả xa, một đứa tuy là ở Thịnh Kinh nhưng không hay gặp mặt.
Tết năm nay Cố Kiến Sơn không về, năm trước cũng không.
Ngày Tết lúc thăm họ hàng, ban đầu bà vô cùng vui vẻ, sau đó lại lập tức muốn lên Tây Bắc xa xăm chỗ ấu tử, nghĩ đến rất nhiều lần, rồi trằn trọc ngủ không yên.
Trịnh thị biết tại sao mình bệnh, nhưng không thể nói với người khác.
Bà là Vĩnh Ninh hầu phu nhân, là mẫu thân của Cố Kiến Sơn, không được oán hận câu nào, mấy lời như này mà nói với người khác sẽ tạo thành gánh nặng cho Cố Kiến Sơn.
Cố Kiến Châu đi Điền Nam, nhiều lắm chỉ khổ một chút mệt một chút, vậy còn Cố Kiến Sơn thì sao.
Trịnh thị cười khổ nói: “Không biết khi nào mới về nữa.”
Khương Đường rũ mắt, gằn từng chữ một nói: “Phu nhân, ngũ công tử đến Tây Bắc, không chỉ đơn giản là vì ngự triều, cũng không đơn giản là vì bá tánh ngự trình.”
Trong lòng có người muốn bảo vệ mới có thể vô tư không sợ hãi như vậy.
Miệng Trịnh thị khẽ hé mở, như đang chìm trong suy nghĩ, giờ phút này, trong mắt Khương Đường, Trịnh thị không phải hầu phu nhân gì cả, mà chỉ là một mẫu thân lo lắng cho hài tử mà thôi.
Khương Đường nhanh chóng múc một muỗng cháo: “A—”
Trịnh thị cúi đầu nhìn bát cháo có tôm khô màu trắng cam với lòng đỏ trứng vịt màu hoàng kim óng ánh, giống như Khương Đường nói, chỉ nhìn thôi đã thấy ngon.
Bà có bao giờ để người khác dỗ ăn thế này đâu, chỉ có hài tử mới thế này.
Mấy đứa con của Trịnh thị cũng chưa như này bao giờ.
Khương Đường nói: “Phu nhân thử một muỗng đi, chắc chắn rất ngon.”
Trịnh thị nhìn mặt Khương Đường, bà từng nhìn Vĩnh Ninh hầu từ góc độ này, cái mặt già kia… nhìn đã thấy bực.
Cô nương này thực sự rất ưa nhìn, nhìn một hồi, Trịnh thị mới ăn một miếng.
Sau khi uống hơn nửa chén cháo, Khương Đường lấy khăn lau miệng cho Trịnh thị: “Phu nhân, nô tỳ biết ngài nhớ Ngũ công tử, Ngũ công tử cũng nhớ ngài lắm. Ngài phải khỏe mạnh chờ Ngũ công tử quay về.”
Trịnh thị biết điều này chứ, nhưng không muốn nghe thôi: “Ngươi đi ra ngoài đi.” Khương Đường dạ một tiếng, dọn dẹp chén đũa: “Nô tỳ cáo lui.”
Bước ra khỏi phòng, Khương Đường đóng cửa lại.
Nhìn thấy cái chén không, Hàn thị mới yên tâm: “Tốt, ngươi lui xuống đi, phòng bếp nhỏ chuẩn bị đồ ăn xong rồi đấy.”
Ăn được là chuyện tốt rồi, ăn ngon uống tốt, từ từ sẽ khỏe lại thôi.
Chạng vạng, Vĩnh Ninh hầu trở về, nhìn Trịnh thị một lúc rồi đi ra, sau khi Cố Kiến Châu hạ chức đã lập tức đến chính viện nhưng không thấy người đâu.
Vĩnh Ninh hầu đi vài bước ở ngoài phòng: “Về hết đi.”
Cố Kiến Châu: “Mẫu thân tại con mới…”
Hắn muốn ở lại thêm chốc nữa.
Vính Ninh hầu nói: “Con là đầu bếp hay là đại phu, ở đây không cần con, nói gì mà tại con, nói chuyện phải dùng não, chẳng lẽ con muốn chuốc họa cho hầu phủ hay sao?”
Mấy lời như này tuyệt đối không được nói bậy.
Cố Kiến Châu bướng bỉnh: “Con chờ mẫu thân uống thuốc xong rồi về.”
Vĩnh Ninh hầu vẫn thấy hài lòng với Cố Kiến Châu, chỉ là tính tình hắn thật thà, chưa được mài giũa. Cố Kiến Sơn còn trưởng thành, chững chạc hơn hắn nhiều, ông cả đời ngựa chiến thiên hạ, may mà có người kế thừa.
“Thôi, con muốn trông nom thì trông nom đi.”
Cố Kiến Châu trông nom tới nửa đêm, khi trở về nha hoàn khác đã về hết rồi, chỉ có Bạch Vi canh cửa: “Tứ gia, đại nương tử ngủ rồi, ngài dùng cơm đi, phòng bếp nhỏ hấp bánh bao với cháo…”
Cố Kiến Châu: “Ta không đói bụng, ngươi đi xuống đi.”
Hắn đẩy cửa vào phòng, trong phòng thắp một trản đèn, ánh nến chợt lóe chợt tắt, hắn đi đến mép giường ngồi xuống, Lục Cẩm Dao ngủ rất ngon. Hắn không biết lúc trước nhận công lao lương khô tuân lệnh đến Điền Nam là đúng hay sai, nếu không đi thì sẽ không xảy ra chuyện như vậy.
Đến bây giờ hắn mới hiểu được, lúc trước khi ngũ đệ rời đi đã phải chịu đựng những gì, khi đó Cố Kiến Sơn mới bao lớn đâu chứ.
Sáng sớm hôm sau, Lục Cẩm Dao soạn đồ cho Cố Kiến Châu, nàng ấy tính phái Lộ Trúc với Tinh Tương đi theo Cố Kiến Châu đến Điền Nam, tuy ngày thường Cố Kiến Châu không cần nha hoàn hầu hạ, nhưng có nha hoàn đi theo tiện hơn nhiều.
Lộ Trúc làm việc đáng tin cậy, Tinh Tương biết chút y thuật, bây giờ nàng có Trần ma ma nên tạm thời không cần Tinh Tương, những người còn lại thì canh giữ Yến Kỉ Đường mới nàng.
Trịnh thị bị đường, nhưng Cố Kiến Châu không thể không đi.
Vốn dĩ bởi vì chuyện rời đi đã khiến cho trong lòng ai cũng thấy khó chịu, bây giờ Trịnh thị lại bị bệnh, họ càng khó chịu hơn nữa. Cố Kiến Châu cảm thấy mình là người con không thể làm tròn chữ hiếu, là người phu quân không thể che mưa chắn gió cho thê tử.
Nếu là trước kia, những tâm sự này chắc chắn không thể trốn khỏi mắt Lục Cẩm Dao, nhưng bây giờ Cố Kiến Châu đã học cách che giấu.
Soạn một vài món đồ mang đi trên đường cho Cố Kiến Châu xong, Lục Cẩm Dao nói: “Đến chính viện đi.”
Lục Cẩm Dao cho rằng, Trịnh thị ăn cơm được là không sao nữa, không ngờ buổi sáng thức dậy Trịnh thị đột nhiên sốt cao, hôn mê bất tỉnh.
Mời đại phu bên ngoài cũng vô dụng, cuối cùng Vĩnh Ninh hầu cầm lệnh bài của mình vào cung mời thái y.
Từ trong cung đến là Lý thái y, Lục Cẩm Dao từng có vinh hạnh gặp qua một lần.
“Giống như bị sốt nhưng không phải, mà cứ như bị thứ gì đó chặn lại, gần đây tôn phu nhân có phải chịu k1ch thích gì không?”
Vĩnh Ninh hầu đưa mắt nhìn Trịnh thị trên giường, sắc mặt lúc đỏ lúc trắng, tóc ướt đẫm mồ hôi, trong miệng không ngừng gọi tên Cố Kiến Sơn.
“Chưa từng chịu k1ch thích gì.”
Lý thái y nói: “Vậy trước tiên kê chút thuốc an thần là được rồi.”
Chờ Nam Hương đưa Lý thái y rời đi, Vĩnh Ninh hầu ngồi xuống mép giường, ông nắm lấy tay Trịnh thị, nhẹ giọng nói: “Kiến Sơn là người tốt, người hiền tự có thiên tướng, từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ làm bà hay ta lo lắng, bà không cần lo lắng quá mức.”
Trịnh thị vẫn đang chìm trong giấc mơ, nước mắt theo tóc mai chảy xuống, trên gối đầu ướt một mảng.
Vĩnh Ninh hầu thở dài, cho dù biết gốc rễ căn bệnh nằm ở đâu, nhưng không thể kêu Cố Kiến Sơn về được, tướng sĩ trong quân, chưa nhận được lệnh truyền thì không được hồi kinh, quân lệnh như núi.
Trên đời này không chỉ có Trịnh thị nhớ nhi tử, tất cả mẫu thân đều nhớ nhi tử. Nếu người nào cũng lấy bệnh tật ra kêu quân nhân ở bên ngoài quay về nhà thì còn gì là quy củ nữa.
Nói thật, nếu hôm nay ông với Trịnh thị có chết, Cố Kiến Sơn cũng không thể quay về đội khăn tang được.
Vĩnh Ninh hầu cảm thấy Trịnh thị quá yếu đuối, có chút vậy thôi đã không chịu được.
Ông ngồi một lát là đi rồi, Trịnh thị chỉ ăn hơn nửa chén cháo hôm qua, sáng sớm nay còn chưa ăn cơm.
Hàn thị đã thử bưng chén cháo ngồi bên mép giường, nhưng Trịnh thị còn không thèm mở mắt ra, không còn cách nào chỉ có thể gọi Khương Đường tới.
Thật ra trong lòng Hàn thị không muốn làm chuyện này đâu, ai lại bằng lòng hầu hạ người khác chứ, nàng ta đâu phải hạ nhân.
“Cố gắng đút phu nhân ăn mấy muỗng, còn nếu thật sự ăn không vô thì thôi.”
Khương Đường bưng thêm tôm khô với đậu đũa muối chua xào mơ khô vào.
“Phu nhân, dậy thôi ạ, tới giờ ăn tối rồi. Hôm nay vẫn ăn cháo trắng, cháo này nấu hết hai canh giờ, nấu ra cả dầu gạo luôn. Nô tỳ trộn nhiều tôm khô để ngài thay đổi khẩu vị, hôm nay không ăn hột vịt muối, ngài nếm thử đậu đũa muối chua xào mơ khô xem, nô tỳ có cho thêm thịt bằm vào trong, ăn với cơm rất ngon.”
Bấy giờ Trịnh thị mới mở mắt ra ăn mấy miếng.
Hàn thị không khỏi trợn mắt, việc này kêu nàng ta làm một ngày còn được, chứ cứ đút ngày này qua ngày khác, nàng ta đã sớm thấy phiền lắm rồi.
Đút được hơn nửa chén cháo, Trịnh thị lại ngủ tiếp. Đây là lần đầu tiên Khương Đường cảm nhận được cái gì gọi là bệnh tới như núi sập.
Khi nàng rơi xuống nước chỉ trùm chăn ngủ một giấc đã tung tăng nhảy nhót lại bình thường, căn bản không có cảm giác đứng trước cái chết.
Mà nay nhìn Trịnh thị, mới một ngày đã không xuống giường nổi. Ở nơi đây ngoại trừ phải cẩn thận tránh bị hãm hại, còn phải coi chừng sinh bệnh.
Tuy nơi đây cuộc đời không công bằng, nhưng đối mặt với sống chết, chúng sinh vẫn bình đẳng.
Hàn thị kêu Khương Đường cứ cách một canh giờ là lại qua đây một lần.
Qua một canh giờ Khương Đường tiến vào, nàng ngừng lại ở cửa trong chốc lát. Tuy cửa sổ trong phòng chỉ mở hé một xíu, nhưng góc tường đặt chậu băng, trong phòng cũng không nóng.
Bởi vì đóng cửa sổ nên trên bàn có bày giá cắm nến.
Nàng đặt khay lên bàn, đi đến mép giường, nhẹ nhàng quơ quơ tay Trịnh thị: “Phu nhân, dậy dậy, dậy dậy.”
Thấy Trịnh thị vẫn không tỉnh, Khương Đường gọi thêm hai tiếng nữa, giờ Trịnh thị mới mở mắt ra.
Ánh mắt bà có phần mông lung, trong mắt còn ngấn lệ.
Tẩy trang đi, trông bà già hơn ngày thường nhiều, đôi mắt cũng sưng đỏ hơn bình thường.
Trịnh thị thấy là Khương Đường, bà dùng sức bắt lấy tay nàng: “Ta mơ thấy… mơ thấy…”
Bà mơ thấy Cố Kiến Sơn chết trên chiến trường.
Một mình hắn, cô độc bước vào quân doanh của địch, giết tướng lĩnh quân địch, bản thân lại không thể trở về, trời tháng sáu, bị ném vào núi tuyết, chỉ có một mình vậy thôi.
Trịnh thị chưa bao giờ đến Tây Bắc, Vĩnh Ninh hầu càng không kể cho bà chuyện đánh giặc, làm sao bà có thể nhớ rõ giấc mơ ấy đến vậy, gì mà quân địch, núi tuyết, sao có thể rõ ràng như vậy.
Những lời này Trịnh thị không dám nói với Vĩnh Ninh hầu, ông sẽ tức giận, sẽ thấy bà tưởng tượng bậy bạ, sẽ kêu sắp đại chiến rồi nói vậy là xui xẻo. Nhưng Khương Đường thì không, nàng sẽ không dám kể lại với ai cả.
Trịnh thị khàn cả giọng: “Có phải bên kia truyền đến tin Kiến Sơn gặp chuyện gì không, các ngươi đều gạt ta! Có phải hay không…”
Khương Đường ôm chặt lấy Trịnh thị, vỗ vỗ vai bà: “Nô tỳ lấy mạng ra thề, tuyệt đối không có. Ngày nghĩ gì đêm mơ đó, cho nên ngài mới sẽ nghĩ như vậy. Nếu xảy ra chuyện gì, mà con người có thể mơ được ngay, thì căn bản không cần bồ câu đưa thư, trực tiếp báo mộng luôn là được.”
“Phu nhân, giấc mơ đều trái ngược với hiện thực, tin sẽ có, không tin sẽ không. Ngũ công tử không sao đâu, ngài đừng sợ.” Khương Đường cũng khá hoảng hốt, nhưng nàng cảm thấy Cố Kiến Sơn sẽ không chết, nàng nhớ trong tiểu thuyết Cố Kiến Sơn cũng không chết.
Tiểu thuyết chỉ diễn ra xoay quanh Lục Cẩm Dao, làm gia chủ mẫu, ngoại trừ tổ chức các loại yến hội, duy trì quan hệ với người khác, còn phải lo liệu hỉ sự tang sự của Hầu phủ.
Không có tang sự nào liên quan đến Cố Kiến Sơn, vậy chứng tỏ hắn không chết.
Cá nhân Khương Đường cũng không hy vọng hắn chết.
Giống như Triệu đại nương nói, vô thường gặp hắn cũng phải vái một cái rồi đi, người như vậy thì sao mà chết được.
Khương Đường đột nhiên nhớ tới Cố Kiến Sơn, trong tiểu thuyết không miêu tả hắn nhiều lắm, không phải ở Tây Bắc thì chính là quân doanh.
Tòng quân từ bé, những ngày trở về có thể đếm trên đầu ngón tay.
Không phải cứ rời đi là chắc chắn có thể trở về được, có lẽ tới tận bây giờ Cố Kiến Sơn vẫn chưa về, Trịnh thị không biết lần sau gặp lại liệu là xa cách lâu ngày không gặp hay mãi mãi bị chia cắt đây nữa.
Khương Đường thở dài trong lòng, có lẽ cũng là nhàn quá sinh bệnh.
Bây giờ Hàn thị quán xuyến việc nhà, Lục Cẩm Dao hỗ trợ. Lục Cẩm Dao có năng lực như nào không phải Khương Đường không biết, Trịnh thị chẳng phải không có việc làm, con người một khi rảnh rỗi sẽ suy nghĩ lung tung.
Hồi vừa tới, buổi tối Khương Đường ngủ không ngon, luôn mơ thấy ngày nào đó sẽ bị đuổi tới thôn trang, sau này bận rộn thì đỡ hơn. Mãi cho đến khi Cố Kiến Thủy dẫn theo Nguyệt Nương về nàng cũng chưa mơ thấy vậy nữa.
Chạng vạng, Trịnh thị có tỉnh dậy một hồi, Khương Đường bưng cháo đi vào, Nam Hương muốn đút cháo cho Trịnh thị uống nhưng Trịnh thị lại phất phất tay, quay lưng lại với mọi người.
Nam Hương liếc mắt nhìn Khương Đường một cái, mặt lộ vẻ khó xử.
Lúc này Vĩnh Ninh hầu vẫn chưa về, ngoại trừ Lục Cẩm Dao thì mấy đại nương tử các phòng khác đều ở đây.
Hàn thị bưng bát: “Mẫu thân, ăn miếng cháo lót dạ đi.”
Trịnh thị hơi thở mong manh nói: “Ta không đói bụng, bưng đi đi.”
Hàn thị ngồi ở mép giường: “Này là cháo mới nấu, mùi thơm lắm, mẫu thân nếm thử đi.”
Trịnh thị bất động như cũ.
Hứa thị với Vân thị đứng một bên, giống hai cái đầu gỗ, Hàn thị liếc mắt ra hiệu, hai người đồng loạt lắc đầu.
Xưa giờ hầu bệnh là nhiệm vụ của nha hoàn hầu hạ, căn bản không cần các nàng phải làm gì, các nàng làm sao biết hầu hạ người khác chứ.
Hàn thị trả bát lại: “Ra ngoài hết đi, cả đám người chen chúc trong này ngộp muốn chết.”
Buổi trưa đã ăn cơm rồi nên có lẽ bây giờ chưa đói bụng.
Khương Đường đi theo ra ngoài, tới cửa, nàng nói: “Đại nương tử, không ấy để nô tỳ thử xem.”
Hàn thị chỉ có thể chữa ngựa chết thành ngựa sống: “Nếu không muốn ăn thật thì thôi đi, hồi trưa mới ăn cơm rồi, không ăn thì chờ lát nữa cũng được.”
Khương Đường gật gật đầu: “Nô tỳ đã hiểu.”
Khương Đường bưng khay lặng lẽ đi vào, nàng đặt cháo lên bàn nhỏ, quấy một chút lòng đỏ trứng vịt muối vào trong cháo, rồi rải chút tôm khô, sau đó bưng chén ngồi xổm bên mép giường.
“Phu nhân, hột vịt muối này được ủ trong bùn đỏ, từng hột được chọn lựa kỹ lưỡng, sau khi nấu chín cắn nhẹ một cái lòng đỏ bên trong sẽ chảy ra. Không phải vị khô ráp mà là mềm mại, chỉ nhìn thôi đã thấy ngon. Còn có tôm khô này nữa, đây là ngư dân phía đông phơi, toàn là tôm nhỏ, tươi mất, quấy…”
Trịnh thị không thể nhịn được nữa: “Đi ra ngoài!”
Khương Đường nói xong lời còn chưa nói hết: “Cháo ăn thơm nhất.”
Cơ thể Trịnh thị run rẩy, ở nơi người khác không nhìn thấy, gối đầu đã ướt một mảng lớn.
Bà mím môi, đưa tay lau khô nước mắt, bấy giờ mới chậm rãi ngồi dậy: “Hắn đâu có nhớ ta… về chưa tới một tháng đã đi tiếp rồi.”
Lời này vốn không nên nói với một nha hoàn là Khương Đường, nhưng Trịnh thị không biết nói cùng ai.
Trước kia bà đã từng nói với Vĩnh Ninh hầu, nhưng ông lại nói nam nhân chí ở tứ phương, người khác còn mong được ra sức vì nước. Vĩnh Ninh hầu lấy Cố Kiến Sơn làm vinh, cảm thấy trong năm nhi tử, Cố Kiến Sơn giống ông nhất.
Căn bản không quan tâm hắn phải chịu bao nhiêu khổ đau.
Càng không thể nói với đám Hàn thị, trong mấy nhi tử người có tiền đồ nhất là Cố Kiến Sơn, tất cả mọi người đều mong bà có thể xử lý mọi việc công bằng, chứ làm sao hiểu được tâm tư lo lắng sợ hãi cho ấu tử của bà.
Con dâu chỉ là con dâu, hiếu thảo là lời ngoài miệng thôi.
Bọn nha hoàn cũng không nói được, một người là chủ tử một người là nô tài, hai nữ nhi thì gả chồng từ lâu rồi, một đứa gả xa, một đứa tuy là ở Thịnh Kinh nhưng không hay gặp mặt.
Tết năm nay Cố Kiến Sơn không về, năm trước cũng không.
Ngày Tết lúc thăm họ hàng, ban đầu bà vô cùng vui vẻ, sau đó lại lập tức muốn lên Tây Bắc xa xăm chỗ ấu tử, nghĩ đến rất nhiều lần, rồi trằn trọc ngủ không yên.
Trịnh thị biết tại sao mình bệnh, nhưng không thể nói với người khác.
Bà là Vĩnh Ninh hầu phu nhân, là mẫu thân của Cố Kiến Sơn, không được oán hận câu nào, mấy lời như này mà nói với người khác sẽ tạo thành gánh nặng cho Cố Kiến Sơn.
Cố Kiến Châu đi Điền Nam, nhiều lắm chỉ khổ một chút mệt một chút, vậy còn Cố Kiến Sơn thì sao.
Trịnh thị cười khổ nói: “Không biết khi nào mới về nữa.”
Khương Đường rũ mắt, gằn từng chữ một nói: “Phu nhân, ngũ công tử đến Tây Bắc, không chỉ đơn giản là vì ngự triều, cũng không đơn giản là vì bá tánh ngự trình.”
Trong lòng có người muốn bảo vệ mới có thể vô tư không sợ hãi như vậy.
Miệng Trịnh thị khẽ hé mở, như đang chìm trong suy nghĩ, giờ phút này, trong mắt Khương Đường, Trịnh thị không phải hầu phu nhân gì cả, mà chỉ là một mẫu thân lo lắng cho hài tử mà thôi.
Khương Đường nhanh chóng múc một muỗng cháo: “A—”
Trịnh thị cúi đầu nhìn bát cháo có tôm khô màu trắng cam với lòng đỏ trứng vịt màu hoàng kim óng ánh, giống như Khương Đường nói, chỉ nhìn thôi đã thấy ngon.
Bà có bao giờ để người khác dỗ ăn thế này đâu, chỉ có hài tử mới thế này.
Mấy đứa con của Trịnh thị cũng chưa như này bao giờ.
Khương Đường nói: “Phu nhân thử một muỗng đi, chắc chắn rất ngon.”
Trịnh thị nhìn mặt Khương Đường, bà từng nhìn Vĩnh Ninh hầu từ góc độ này, cái mặt già kia… nhìn đã thấy bực.
Cô nương này thực sự rất ưa nhìn, nhìn một hồi, Trịnh thị mới ăn một miếng.
Sau khi uống hơn nửa chén cháo, Khương Đường lấy khăn lau miệng cho Trịnh thị: “Phu nhân, nô tỳ biết ngài nhớ Ngũ công tử, Ngũ công tử cũng nhớ ngài lắm. Ngài phải khỏe mạnh chờ Ngũ công tử quay về.”
Trịnh thị biết điều này chứ, nhưng không muốn nghe thôi: “Ngươi đi ra ngoài đi.” Khương Đường dạ một tiếng, dọn dẹp chén đũa: “Nô tỳ cáo lui.”
Bước ra khỏi phòng, Khương Đường đóng cửa lại.
Nhìn thấy cái chén không, Hàn thị mới yên tâm: “Tốt, ngươi lui xuống đi, phòng bếp nhỏ chuẩn bị đồ ăn xong rồi đấy.”
Ăn được là chuyện tốt rồi, ăn ngon uống tốt, từ từ sẽ khỏe lại thôi.
Chạng vạng, Vĩnh Ninh hầu trở về, nhìn Trịnh thị một lúc rồi đi ra, sau khi Cố Kiến Châu hạ chức đã lập tức đến chính viện nhưng không thấy người đâu.
Vĩnh Ninh hầu đi vài bước ở ngoài phòng: “Về hết đi.”
Cố Kiến Châu: “Mẫu thân tại con mới…”
Hắn muốn ở lại thêm chốc nữa.
Vính Ninh hầu nói: “Con là đầu bếp hay là đại phu, ở đây không cần con, nói gì mà tại con, nói chuyện phải dùng não, chẳng lẽ con muốn chuốc họa cho hầu phủ hay sao?”
Mấy lời như này tuyệt đối không được nói bậy.
Cố Kiến Châu bướng bỉnh: “Con chờ mẫu thân uống thuốc xong rồi về.”
Vĩnh Ninh hầu vẫn thấy hài lòng với Cố Kiến Châu, chỉ là tính tình hắn thật thà, chưa được mài giũa. Cố Kiến Sơn còn trưởng thành, chững chạc hơn hắn nhiều, ông cả đời ngựa chiến thiên hạ, may mà có người kế thừa.
“Thôi, con muốn trông nom thì trông nom đi.”
Cố Kiến Châu trông nom tới nửa đêm, khi trở về nha hoàn khác đã về hết rồi, chỉ có Bạch Vi canh cửa: “Tứ gia, đại nương tử ngủ rồi, ngài dùng cơm đi, phòng bếp nhỏ hấp bánh bao với cháo…”
Cố Kiến Châu: “Ta không đói bụng, ngươi đi xuống đi.”
Hắn đẩy cửa vào phòng, trong phòng thắp một trản đèn, ánh nến chợt lóe chợt tắt, hắn đi đến mép giường ngồi xuống, Lục Cẩm Dao ngủ rất ngon. Hắn không biết lúc trước nhận công lao lương khô tuân lệnh đến Điền Nam là đúng hay sai, nếu không đi thì sẽ không xảy ra chuyện như vậy.
Đến bây giờ hắn mới hiểu được, lúc trước khi ngũ đệ rời đi đã phải chịu đựng những gì, khi đó Cố Kiến Sơn mới bao lớn đâu chứ.
Sáng sớm hôm sau, Lục Cẩm Dao soạn đồ cho Cố Kiến Châu, nàng ấy tính phái Lộ Trúc với Tinh Tương đi theo Cố Kiến Châu đến Điền Nam, tuy ngày thường Cố Kiến Châu không cần nha hoàn hầu hạ, nhưng có nha hoàn đi theo tiện hơn nhiều.
Lộ Trúc làm việc đáng tin cậy, Tinh Tương biết chút y thuật, bây giờ nàng có Trần ma ma nên tạm thời không cần Tinh Tương, những người còn lại thì canh giữ Yến Kỉ Đường mới nàng.
Trịnh thị bị đường, nhưng Cố Kiến Châu không thể không đi.
Vốn dĩ bởi vì chuyện rời đi đã khiến cho trong lòng ai cũng thấy khó chịu, bây giờ Trịnh thị lại bị bệnh, họ càng khó chịu hơn nữa. Cố Kiến Châu cảm thấy mình là người con không thể làm tròn chữ hiếu, là người phu quân không thể che mưa chắn gió cho thê tử.
Nếu là trước kia, những tâm sự này chắc chắn không thể trốn khỏi mắt Lục Cẩm Dao, nhưng bây giờ Cố Kiến Châu đã học cách che giấu.
Soạn một vài món đồ mang đi trên đường cho Cố Kiến Châu xong, Lục Cẩm Dao nói: “Đến chính viện đi.”
Lục Cẩm Dao cho rằng, Trịnh thị ăn cơm được là không sao nữa, không ngờ buổi sáng thức dậy Trịnh thị đột nhiên sốt cao, hôn mê bất tỉnh.
Mời đại phu bên ngoài cũng vô dụng, cuối cùng Vĩnh Ninh hầu cầm lệnh bài của mình vào cung mời thái y.
Từ trong cung đến là Lý thái y, Lục Cẩm Dao từng có vinh hạnh gặp qua một lần.
“Giống như bị sốt nhưng không phải, mà cứ như bị thứ gì đó chặn lại, gần đây tôn phu nhân có phải chịu k1ch thích gì không?”
Vĩnh Ninh hầu đưa mắt nhìn Trịnh thị trên giường, sắc mặt lúc đỏ lúc trắng, tóc ướt đẫm mồ hôi, trong miệng không ngừng gọi tên Cố Kiến Sơn.
“Chưa từng chịu k1ch thích gì.”
Lý thái y nói: “Vậy trước tiên kê chút thuốc an thần là được rồi.”
Chờ Nam Hương đưa Lý thái y rời đi, Vĩnh Ninh hầu ngồi xuống mép giường, ông nắm lấy tay Trịnh thị, nhẹ giọng nói: “Kiến Sơn là người tốt, người hiền tự có thiên tướng, từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ làm bà hay ta lo lắng, bà không cần lo lắng quá mức.”
Trịnh thị vẫn đang chìm trong giấc mơ, nước mắt theo tóc mai chảy xuống, trên gối đầu ướt một mảng.
Vĩnh Ninh hầu thở dài, cho dù biết gốc rễ căn bệnh nằm ở đâu, nhưng không thể kêu Cố Kiến Sơn về được, tướng sĩ trong quân, chưa nhận được lệnh truyền thì không được hồi kinh, quân lệnh như núi.
Trên đời này không chỉ có Trịnh thị nhớ nhi tử, tất cả mẫu thân đều nhớ nhi tử. Nếu người nào cũng lấy bệnh tật ra kêu quân nhân ở bên ngoài quay về nhà thì còn gì là quy củ nữa.
Nói thật, nếu hôm nay ông với Trịnh thị có chết, Cố Kiến Sơn cũng không thể quay về đội khăn tang được.
Vĩnh Ninh hầu cảm thấy Trịnh thị quá yếu đuối, có chút vậy thôi đã không chịu được.
Ông ngồi một lát là đi rồi, Trịnh thị chỉ ăn hơn nửa chén cháo hôm qua, sáng sớm nay còn chưa ăn cơm.
Hàn thị đã thử bưng chén cháo ngồi bên mép giường, nhưng Trịnh thị còn không thèm mở mắt ra, không còn cách nào chỉ có thể gọi Khương Đường tới.
Thật ra trong lòng Hàn thị không muốn làm chuyện này đâu, ai lại bằng lòng hầu hạ người khác chứ, nàng ta đâu phải hạ nhân.
“Cố gắng đút phu nhân ăn mấy muỗng, còn nếu thật sự ăn không vô thì thôi.”
Khương Đường bưng thêm tôm khô với đậu đũa muối chua xào mơ khô vào.
“Phu nhân, dậy thôi ạ, tới giờ ăn tối rồi. Hôm nay vẫn ăn cháo trắng, cháo này nấu hết hai canh giờ, nấu ra cả dầu gạo luôn. Nô tỳ trộn nhiều tôm khô để ngài thay đổi khẩu vị, hôm nay không ăn hột vịt muối, ngài nếm thử đậu đũa muối chua xào mơ khô xem, nô tỳ có cho thêm thịt bằm vào trong, ăn với cơm rất ngon.”
Bấy giờ Trịnh thị mới mở mắt ra ăn mấy miếng.
Hàn thị không khỏi trợn mắt, việc này kêu nàng ta làm một ngày còn được, chứ cứ đút ngày này qua ngày khác, nàng ta đã sớm thấy phiền lắm rồi.
Đút được hơn nửa chén cháo, Trịnh thị lại ngủ tiếp. Đây là lần đầu tiên Khương Đường cảm nhận được cái gì gọi là bệnh tới như núi sập.
Khi nàng rơi xuống nước chỉ trùm chăn ngủ một giấc đã tung tăng nhảy nhót lại bình thường, căn bản không có cảm giác đứng trước cái chết.
Mà nay nhìn Trịnh thị, mới một ngày đã không xuống giường nổi. Ở nơi đây ngoại trừ phải cẩn thận tránh bị hãm hại, còn phải coi chừng sinh bệnh.
Tuy nơi đây cuộc đời không công bằng, nhưng đối mặt với sống chết, chúng sinh vẫn bình đẳng.
Hàn thị kêu Khương Đường cứ cách một canh giờ là lại qua đây một lần.
Qua một canh giờ Khương Đường tiến vào, nàng ngừng lại ở cửa trong chốc lát. Tuy cửa sổ trong phòng chỉ mở hé một xíu, nhưng góc tường đặt chậu băng, trong phòng cũng không nóng.
Bởi vì đóng cửa sổ nên trên bàn có bày giá cắm nến.
Nàng đặt khay lên bàn, đi đến mép giường, nhẹ nhàng quơ quơ tay Trịnh thị: “Phu nhân, dậy dậy, dậy dậy.”
Thấy Trịnh thị vẫn không tỉnh, Khương Đường gọi thêm hai tiếng nữa, giờ Trịnh thị mới mở mắt ra.
Ánh mắt bà có phần mông lung, trong mắt còn ngấn lệ.
Tẩy trang đi, trông bà già hơn ngày thường nhiều, đôi mắt cũng sưng đỏ hơn bình thường.
Trịnh thị thấy là Khương Đường, bà dùng sức bắt lấy tay nàng: “Ta mơ thấy… mơ thấy…”
Bà mơ thấy Cố Kiến Sơn chết trên chiến trường.
Một mình hắn, cô độc bước vào quân doanh của địch, giết tướng lĩnh quân địch, bản thân lại không thể trở về, trời tháng sáu, bị ném vào núi tuyết, chỉ có một mình vậy thôi.
Trịnh thị chưa bao giờ đến Tây Bắc, Vĩnh Ninh hầu càng không kể cho bà chuyện đánh giặc, làm sao bà có thể nhớ rõ giấc mơ ấy đến vậy, gì mà quân địch, núi tuyết, sao có thể rõ ràng như vậy.
Những lời này Trịnh thị không dám nói với Vĩnh Ninh hầu, ông sẽ tức giận, sẽ thấy bà tưởng tượng bậy bạ, sẽ kêu sắp đại chiến rồi nói vậy là xui xẻo. Nhưng Khương Đường thì không, nàng sẽ không dám kể lại với ai cả.
Trịnh thị khàn cả giọng: “Có phải bên kia truyền đến tin Kiến Sơn gặp chuyện gì không, các ngươi đều gạt ta! Có phải hay không…”
Khương Đường ôm chặt lấy Trịnh thị, vỗ vỗ vai bà: “Nô tỳ lấy mạng ra thề, tuyệt đối không có. Ngày nghĩ gì đêm mơ đó, cho nên ngài mới sẽ nghĩ như vậy. Nếu xảy ra chuyện gì, mà con người có thể mơ được ngay, thì căn bản không cần bồ câu đưa thư, trực tiếp báo mộng luôn là được.”
“Phu nhân, giấc mơ đều trái ngược với hiện thực, tin sẽ có, không tin sẽ không. Ngũ công tử không sao đâu, ngài đừng sợ.” Khương Đường cũng khá hoảng hốt, nhưng nàng cảm thấy Cố Kiến Sơn sẽ không chết, nàng nhớ trong tiểu thuyết Cố Kiến Sơn cũng không chết.
Tiểu thuyết chỉ diễn ra xoay quanh Lục Cẩm Dao, làm gia chủ mẫu, ngoại trừ tổ chức các loại yến hội, duy trì quan hệ với người khác, còn phải lo liệu hỉ sự tang sự của Hầu phủ.
Không có tang sự nào liên quan đến Cố Kiến Sơn, vậy chứng tỏ hắn không chết.
Cá nhân Khương Đường cũng không hy vọng hắn chết.
Giống như Triệu đại nương nói, vô thường gặp hắn cũng phải vái một cái rồi đi, người như vậy thì sao mà chết được.
Bạn có thể dùng phím mũi tên
hoặc WASD để
lùi/sang chương