Sáu tháng trước.
Bà ngày liền mưa lớn, cuốn trôi đi hết thảy cái nóng oi ả nơi kinh thành và vùng phụ cận. Nhật kỳ vừa bước sang tháng tám, khí tức mùa thu trong núi theo các mương máng mà tràn về, ào ạt đổ dồn xuống, lan khắp hai bên bờ ruộng.
Ngoài cửa điền trang, dưới bóng cây ngô đồng già, từng chùm quả vàng óng che kín mặt đất. Trận cuồng phong bão tố vừa qua, đại thụ lay động rũ sạch cành lá, bóng người nhẹ nhàng đắm mình trong gió thu tắm gội, tinh thần sảng khoái.
Đỗ Linh Tĩnh đứng trước cửa, hoàn cảnh của nàng so ra không thể sánh với cây ngô đồng kia, thứ mà phụ thân nàng năm ấy khi còn trẻ, đỗ Trạng Nguyên, đã tự tay trồng xuống.
Nàng bị trận mưa này níu lại ở kinh thành đã năm ngày. Trước mắt trời đã tạnh, song tính toán lại thời gian, muốn kịp trở về quê nhà Sơn Đông trước Trung thu thì không kịp nữa.
Nguyễn quản sự liền khuyên: “Cô nương từ Sơn Đông lên kinh nộp thư, nay mưa gió giữ chân, chi bằng ở lại đây qua Trung thu. Đúng lúc nhị lão gia cùng cả nhà đều ở kinh thành, cô nương qua đó cũng coi như đoàn viên toàn gia.”
Đỗ Linh Tĩnh nghe vậy, trầm ngâm cân nhắc.
Mẫu thân nàng mất khi nàng mới năm tuổi. Phụ thân không tái giá, nàng từ nhỏ theo cha ngao du đây đó làm quan, sau mới nhập kinh thành, ở trong nhà cũ do tổ phụ lưu lại. Quan lộ của phụ thân ngày một thăng tiến, được tiên đế sủng ái, thường triệu vào hầu cận lúc lâm bệnh, sau lại càng đề bạt, trở thành Văn Uyên Các đại học sĩ.
Ba mươi sáu tuổi đã là các thần, dẫu xuất thân là Trạng Nguyên cũng coi như là ngoại lệ đầu tiên.
Chỉ tiếc tiên đế băng hà, chẳng bao lâu tân đế kế vị, tổ phụ cũng nối gót quy tiên. Đỗ Linh Tĩnh theo cha rời kinh về quê Thanh Châu, Sơn Đông để chịu tang giữ tròn đạo hiếu.
Nguyên lẽ phụ thân mãn tang ba năm sẽ trở lại kinh phục chức, nào ngờ trên đường hồi kinh, gặp phải lũ dữ bất ngờ…
Phụ thân mất trong tai nạn, năm đó nàng vừa đúng mười bảy.
Khi còn sống, phụ thân đã định hôn ước cho nàng cùng Tưởng Tam Lang. Nàng cùng Tam Lang lớn lên bên nhau, tình ý sớm sâu đậm, dĩ nhiên không nghĩ đến gả cho người khác. Nhưng Tam Lang thân thể yếu nhược, chưa kịp thành hôn đã yểu mệnh qua đời.
Năm ấy, nàng vừa tròn hai mươi.
Trước đó, thím Cố đã để ý, nói nàng không cha không mẹ, nay phu quân chưa thành cũng mất, e rằng chẳng phải tướng phúc lành.
Song Đỗ Linh Tĩnh vốn không để tâm. Có điều lần này lại vào tiết Trung thu, nàng đột ngột ghé cửa thăm hỏi, trong mắt người ngoài, chưa chắc đã được coi là chuyện đoàn viên hỉ sự.
Vì thế, nàng chỉ sai Nguyễn quản sự chuẩn bị lễ Trung thu, đến lúc đó mang tặng cho thúc phụ, thím cùng nhị muội và tiểu đệ, coi như có quà Trung thu.
“…Chỉ là nhiều năm không gặp đệ muội, không biết họ thích thứ gì. Còn thím ta, dạo này thế nào rồi?”
Thím nàng Cố phu nhân, năm ngoái ra ngoài chẳng may gặp tai nạn. May mắn giữ lại một mạng, nhưng thân thể trọng thương, phần lớn thời gian đều hôn mê, trí nhớ mơ hồ, không còn phong thái năm xưa, chỉ có thể nằm trên giường tĩnh dưỡng.
Nguyễn Cung liền sai người đến thôn trang hồi môn của Cố phu nhân ở kinh thành dò hỏi tình hình. Gã sai vặt đi một canh giờ mới quay lại, sắc mặt lại có phần kỳ lạ.
“Có chuyện gì vậy?” Đỗ Linh Tĩnh lập tức sai Nguyễn Cung gọi hắn ta vào đại sảnh.
Gã sai vặt tên Xương Bồ, ấp a ấp úng, chẳng biết mở miệng từ đâu.
Nguyễn Cung tiến lên đá hắn ta một cước, quát: “Ngươi nghe được gì thì nói hết ra, từ đầu đến cuối, không được giấu diếm!”
Xương Bồ ôm mông, lúc này mới chịu mở lời.
“Tiểu nhân đến nơi, nhị phu nhân bồi phòng thấy là tiểu nhân thì giật mình, ta liền đem chuyện chúng ta bị mưa vây ở nơi này nói ra, lại theo đúng phân phó của cô nương mà hỏi thăm tin tức.”
“Bọn họ nói phủ đệ ở phường Thành Khánh bên kinh thành, nhị lão gia đang tu bổ, tạm thời chưa xong, phải đợi thêm vài tháng nữa. Nhị phu nhân vẫn như cũ, chỉ là hơn tháng trước mắc một trận bệnh nhỏ, nay càng thêm hư nhược, mỗi ngày đều phải dùng dược liệu quý để điều dưỡng. Nhị cô nương thì tiếp quản việc nội trợ trong nhà, ngày thường phải đến Cố gia học hỏi thêm, vô cùng bận rộn. Tiểu gia đầu năm đã vào Bảo Định thư viện đọc sách, bình thường cũng chẳng có ở nhà.”
Thu Lâm cau mày: “Như thế chẳng phải đều tốt sao? Sao ngươi lại một bộ dạng nghẹn như ăn phải hột táo, nuốt không trôi cũng chẳng phun ra được?”
Thu Lâm vừa hỏi xong, Xương Bồ lại càng tỏ ra ấp úng, mặt mũi đầy vẻ lạ lùng. Nguyễn Cung liền giơ chân đá mạnh một cái vào mông hắn ta: “Còn chuyện gì thì nói hết ra mau!”
Cú đá này khá nặng, Xương Bồ lảo đảo một cái, bèn không giấu giếm gì nữa, đem tất cả nói rõ:
“Tiểu nhân vốn định hỏi xong thì về, nào ngờ trong viện lại thấy bày rất nhiều hòm xiểng. Trên đó toàn là hoa văn tước đăng chi, tịnh đế liên, nhìn thế nào cũng giống rương hồi môn. Có một cái hòm, bên trong đặt bốn xấp lụa đỏ thẫm, như là sắp sửa phải lấy ra dùng ngay. Ta buột miệng hỏi: ‘Chẳng lẽ nhị cô nương sắp thành thân rồi sao?’ Ai ngờ vừa hỏi, bọn họ đều chỉ ậm ừ cho qua.”
Nguyễn Cung và Thu Lâm liếc nhìn nhau, ánh mắt đều lộ vẻ quái lạ. Nhị cô nương vốn chưa tới tuổi cập kê mà.
Đỗ Linh Tĩnh khẽ chau mày: “Tiếp tục nói.”
Xương Bồ liền kể tiếp: “Sau đó có một người lạ mặt đến, nói là chủ sự thôn trang. Ta hỏi ra mới biết là người Cố gia phái tới.”
Hắn ta nói người kia gọi là Cố Cửu. Ban đầu còn nói vài lời khách sáo, sau lại bảo đường lớn lầy lội khó đi.
“Nói rằng cô nương không tiện vào kinh, để bọn họ thay mặt đưa đi cũng được. Lại hỏi chúng ta khi nào trở về, để họ có thể phái người hộ tống cô nương… Cố Cửu nói một thôi một hồi, ta bèn hỏi một câu: trong nhà có phải đang muốn làm hỉ sự? Gã liền nói không phải, chỉ bảo nhị cô nương sắp cập kê, chuẩn bị chút lễ vật cho lễ cập kê mà thôi.”
Xương Bồ rốt cuộc đem hết thảy nuốt nghẹn trong họng nói ra, giống như hạt táo mắc ở yết hầu cuối cùng cũng phun xuống.
“Cô nương, Cung gia, Thu Lâm tỷ tỷ, các người nói xem có kỳ quái không? Nếu nhị cô nương làm lễ cập kê, sao không nói thẳng? Hơn nữa ta nhìn rõ ràng chính là hòm hồi môn, chẳng lẽ sau lễ cập kê liền phải gả đi? Đã là đại hỉ sự, cớ sao lại không cho chúng ta biết? Chẳng lẽ còn sợ chúng ta phá hỏng bầu không khí vui mừng của họ sao……”
Lời còn chưa dứt, Nguyễn Cung đã giơ chân suýt đá cho hắn ta văng khỏi thính đường: “Ngươi nói bậy bạ gì thế?”
Xương Bồ ôm mông, mặt mày ủy khuất.
“Được rồi.” Đỗ Linh Tĩnh kịp thời cất lời, ngăn lại cú đá thứ tư của Nguyễn Cung.
Nàng gật đầu với Xương Bồ: “Không sao, ngươi đi một chuyến cũng đã mệt rồi, lui xuống nghỉ ngơi đi.”
Âm giọng nàng rơi xuống, tựa như mưa còn đọng dưới hiên tí tách nhỏ xuống đại lu chứa nước, gợn từng vòng sóng lăn tăn.
Xương Bồ lại càng thấy khó chịu, muốn nói thêm gì đó nhưng đều bị ánh mắt của Nguyễn Cung trừng cho phải nuốt trở vào, cuối cùng chỉ nghẹn ra được một câu:
“Cô nương, trong lòng chớ bận tâm, không đáng đâu!”
Dứt lời, hắn ta ôm mông chạy mất.
Thu Lâm “ai” một tiếng, Nguyễn Cung thì suýt nữa đuổi theo đá thêm, còn Đỗ Linh Tĩnh thì không nhịn được khẽ cong khóe môi, nở nụ cười.
Thu Lâm bất mãn nói: “Cô nương còn cười nữa? Người ta đề phòng chúng ta chẳng khác nào đề phòng kẻ cướp vậy.”
Nguyễn Cung lại trầm ngâm một chút: “Cô nương, chúng ta thật sự cứ thế mà tránh đi hay sao? Có nên vào kinh cẩn thận dò hỏi một phen chăng?”
Y vốn không dám chắc, bởi cô nương mấy năm nay một mình gánh vác chuyện của thư viện, vẫn luôn giữ nguyên tắc: thà ít một chuyện còn hơn nhiều một chuyện.
Nguyễn Cung còn đang nhìn dò xét, thì đã nghe cô nương an ổn ngồi ngay ngắn, giọng chậm rãi vang lên:
“Trước phải hiểu rõ sự việc rồi mới tránh đi, ấy mới là cách an ổn để né chuyện; còn nếu chỉ biết tránh mà chẳng rõ ngọn nguồn, e rằng sẽ sinh ra điều kỳ quặc khó lường.”
Ánh mắt Nguyễn Cung sáng bừng.
Lời cô nương nói đúng là chỗ y đang băn khoăn. Bất kể nhị phòng có tình hình thế nào, trước hết phải điều tra cho rõ ràng rồi hãy tính tiếp.
Cô nương dặn dò: “Ngươi đích thân vào kinh thành một chuyến.”
“Vâng!”
*
Nguyễn Cung vừa lui xuống, Đỗ Linh Tĩnh lại ngồi dưới hiên đọc sách một lát. Sắc trời chẳng còn tươi sáng bao nhiêu, giờ càng thêm âm u, thỉnh thoảng lất phất vài hạt mưa nhỏ.
Thu Lâm vội vàng gọi người thu dọn mấy quyển sách vừa mới đem ra phơi.
“Cô nương, sách này phơi mãi cũng chẳng khô, nếu ở phương nam thì đã sớm mốc cả rồi.”
Nàng vừa chau mày vừa dặn dò: “Mấy quyển này còn quý hơn người, mỗi cuốn đều là bỏ bạc lớn mua được; thọ tuổi còn hơn cả ngươi, đều là những lão tổ vượt trăm năm rồi! Cẩn thận đừng để hư hao vào.”
Bọn nha hoàn động tác khẽ đến mức như đang chạm vào tơ tóc.
Đỗ Linh Tĩnh nhìn mà khẽ mỉm cười.
Họ Đỗ từ đời Cao Tổ đã ham học, đến đời tổ phụ thì xsản sinh ra vị đệ nhất tiến sĩ.
Tổ phụ vốn là người yêu sách, chẳng mấy kiên nhẫn với quan trường rườm rà, chẳng bao lâu đã cáo quan hồi hương, chuyên tâm dạy học nghiên cứu, đào tạo nhân tài khắp thiên hạ, trở thành bậc đại nho lừng danh một phương.
Ông dựng nên một thư viện, đặt tên là “Miên Lâu”. Khác với những Tàng Thư Lâu chỉ để tư gia cất giữ, ngay từ đầu Miên Lâu đã mang nguyện vọng của tổ phụ, mở ra để cho mọi người trong thiên hạ ai cũng có thể đọc sách.
Khi phụ thân về quê chịu tang, lại càng dốc sức phát triển tàng thư, rộng cửa mời khách hiếu sách, mở lối cho những kẻ ham học đến tìm đọc.
Sau khi phụ thân mất, thúc phụ ra ngoài làm quan, nàng tiếp quản Miên Lâu. Từ đó càng gắng sức tìm kiếm những cổ bản quý hiếm, mỗi lần tìm được một bộ liền như khai quật được bảo vật chôn vùi giữa lớp bụi trần, dốc lòng tu chỉnh, khắc in lưu trữ lại rồi phát hành.
Ý niệm ban đầu của nàng chỉ là sợ sách cổ bị thất truyền, nào ngờ Miên Lâu nhờ vậy mà danh tiếng lan xa, mấy năm qua đã dần có thể sánh cùng các Thư viện nổi tiếng ở đất Giang Nam. Bản thân Đỗ Linh Tĩnh cũng vô tình mà được chút danh vọng trong giới sĩ lâm.
Nhưng danh tiếng của Miên Lâu, không chỉ nhờ công sức ba đời tổ tông. Mà vị hôn phu của nàng, Tưởng gia Tam Lang, cũng từng dốc lòng tận lực.
Tưởng gia vốn là đại tộc ở địa phương, vừa đọc sách vừa canh điền, tiền triều không thiếu người đỗ đạt, nhưng sang bổn triều khai quốc thì nhân tài thưa thớt, duy chỉ có Tam Lang xuất chúng, mười sáu tuổi đã trúng Giải Nguyên một tỉnh.
Đáng tiếc Tam Lang từ nhỏ thân thể yếu đuối, việc khoa cử hao tổn tâm lực, sau khi đỗ Giải Nguyên thì thân thể càng thêm suy nhược, đành phải gián đoạn công danh.
Tam Lang đem chút tinh lực còn sót lại đặt cả vào Miên Lâu của nàng, còn dùng bạc của Tưởng gia để thu thập không ít những cuốn sách đời Tống* quý hiếm, đưa vào cất giữ trong Miên Lâu, lại lấy danh nghĩa họ Đỗ mà khắc in, phát hành.
Khi ấy nàng từng nói điều này không ổn thỏa: “Hai ta chưa thành thân, bên ngoài khó tránh miệng lưỡi gièm pha. Hơn nữa, Miên Lâu vốn không phải của hồi môn, ta cũng không định mang theo.”
Tam Lang cười rộ, vừa cười vừa khẽ ho khan, rồi dịu dàng gọi nàng.
Chàng gọi nàng là “Tuyền Tuyền”, cái tên tự mà chàng lén đặt cho nàng. Năm ấy phụ thân nghe được, liền cười nói: “Nước tĩnh gió mát, ấy chính là tuyền, Khiêm Quân lấy tự này thật là khéo.” Một câu ấy làm cho hai người họ mặt đỏ suốt nửa tháng.
Khi ấy, Tưởng Trúc Tu – Tưởng Khiêm Quân cười bảo: “Tuyền Tuyền có phải nghĩ quá nhiều rồi không? Ta bỏ số tiền lớn mua Tống bản*, chẳng can hệ gì đến hôn sự của chúng ta cả.”
Nàng ngẩn người, mặt nóng bừng: “Vậy chàng làm vậy để làm gì?”
Tam Lang nhìn nàng, cười khẽ: “Chỉ là muốn mượn Miên Lâu của nhà nàng, để thự hiện lý tượng ‘nịnh Tống’ của ta mà thôi.”
Mấy năm gần đây, thế nhân ưa chuộng Tống bản cổ thư, có kẻ si mê đến mức thành ra giống như nịnh hót. Không biết từ khi nào mà Tam lang lại biến thành một người như vậy.
Chỉ nghe Tam Lang nói: “Ta từng phát hạ chí nguyện, muốn sưu tập đủ trăm bộ Tống thư, làm đệ nhất ‘nịnh Tống’. Chỉ là thân thể ta thế nào nàng cũng rõ. Vạn nhất… ta nói là vạn nhất, nếu mệnh số chẳng đủ, còn xin Tuyền Tuyền thay ta tiếp tục thu đủ trăm bộ Tống thư, đưa vào Miên Lâu, để cho người đời cùng đọc.”
Một lời như sấm nổ giữa trời.
Ân tình bảy năm, nàng vừa mãn hiếu, cách đại hôn cùng Khiêm Quân chỉ còn ba tháng.
Vậy mà chàng, trong đêm tuyết dày, kiên quyết buông tay, bỏ lại nàng cô độc giữa cõi nhân gian lạnh lẽo băng thiên tuyết địa này…
Năm ấy tuyết đổ rất lớn, Miên Lâu trong gió tuyết lay động, tưởng chừng sụp đổ. Thu Lâm quỳ trước cửa thư phòng, cầu xin nàng: “Cô nương, không thể tự giam mình trong thư phòng nữa! Miên Lâu sắp sụp đổ rồi! Sách mà Tam gia để lại, cũng sắp bị vùi dưới nền tuyết!”
Tổ phụ, phụ thân, Khiêm Quân… vì sao bọn họ lại để lại cho nàng nhiều gánh nặng đến thế?
Nhưng lầu cao do tổ phụ dựng, khách khứa do phụ thân đãi, há có thể để sụp nát trong tay nàng?
Mà người kia, chí nguyện chưa thành, vẫn còn dở dang. Chàng ngây ngô muốn sưu tập đủ trăm bộ Tống thư, lại để nàng gánh lấy nửa gia sản, có lẽ chính là muốn nàng dùng cả đời để thay chàng hoàn thành tâm nguyện.
Nàng chỉ có thể gắng gượng, cắn răng mà đứng dậy, chống đỡ Miên Lâu, một thân một mình nơi thế gian, thay Tam Lang đi tìm những Tống bản quý hiếm…
Nhưng thiên hạ tàng thư “nịnh Tống” quá nhiều, Tống bản vốn vô giá. Ba năm qua, Đỗ Linh Tĩnh cũng chỉ sưu được bảy, tám bộ mà thôi.
Ai ngờ mấy ngày trước, từ Tế Nam lại truyền đến tin tức Tống bản cổ thư xuất hiện. Nàng lập tức rời Thanh Châu, truy tìm tung tích sách hiếm. Không ngờ một bộ nối tiếp một bộ, cứ thế mà tìm được, thu liền tám bộ, rồi một đường bắc tiến, đi thẳng tới phụ cận kinh thành.
Mắt thấy trời lại sắp đổ mưa, Đỗ Linh Tĩnh trái lại chẳng lo sách vở chưa kịp thu hồi, chỉ ngẩng đầu nhìn bầu trời u ám.
“Dòng sông phía tây, lần trước suýt nữa vỡ đê, hôm qua mưa tạnh, không biết có ai đến tu bổ chưa?”
Thu Lâm vội vàng đi hỏi thăm trong trang, nhưng mọi người thấy mưa đã dứt, nhất thời chẳng còn ai để tâm tới việc giữ đê. Ngay lúc đang trò chuyện, dưới hiên từng giọt mưa nặng hạt rơi xuống, rơi lộp bộp thành chuỗi.
Thu Lâm kêu khẽ: “Ai da! Cô nương là lo lắng, nếu mưa lớn thêm, đê vỡ thì điền trang chúng ta e khó giữ nổi ư?”
Nhưng trước mắt mưa đã trút xuống, nhân thủ phụ cận chẳng có bao nhiêu, muốn dầm mưa giữ đê quả thực quá nguy hiểm.
Đỗ Linh Tĩnh chỉ trầm ngâm, không nói.
Thu Lâm nhìn mưa mỗi lúc một nặng, mặt mày nhăn nhó lo âu: “Xem chừng ông trời chẳng có ý định ngừng lại, chi bằng nô tỳ hộ tống cô nương cùng sách vở, rời trang mà lên chỗ cao trước?”
Song đường ngoài lầy lội khó đi, đỉnh núi gần nhất lại cách nơi này không gần. Đúng lúc ấy, Xương Bồ hoan hỉ reo vang, dầm mưa chạy đến: “Cô nương! Có quan binh tới tu bổ đê rồi! Đông người lắm luôn!”
Xương Bồ bảo đó là binh sĩ từ đại doanh gần đó: “Không biết vì sao họ đến đây, nhưng có thể giữ cho chúng ta không bị nước lũ cuốn đi là tốt rồi!”
Đỗ Linh Tĩnh khẽ giật mình, lập tức xoay người phân phó Thu Lâm chuẩn bị chút thức ăn. Khi đồ ăn xong, nàng lại sai Xương Bồ đánh xe, tự mình đến bờ đê.
Mưa lớn xối xả, nước sông dâng cao chảy xiết, hung hãn vỗ mạnh vào thân đê. Một khi nơi này vỡ, toàn bộ thôn trang cùng ruộng đồng phía dưới sẽ chìm trong tai ương. Trong trang nhiều lão nhân cũng tới, vẫn đang cùng quan binh thương nghị cách khơi thông dòng chảy.
May mắn thay, khi Đỗ Linh Tĩnh đến, đối sách đã bàn xong, chỉ là không thể hoàn thành trong chốc lát. Nàng nhân lúc mọi người tạm nghỉ, bèn đem thức ăn và nước trà biếu tặng.
Nàng không nhắc đến thân phận hay danh hào trong nhà, chỉ tự xưng là người ở trang bên cạnh, đưa đồ xong liền định rời đi. Nhưng bánh xe lún sâu trong bùn nước, nàng đành phải tạm xuống xe.
Vừa đặt chân xuống đất, Đỗ Linh Tĩnh liền cảm thấy có một ánh mắt từ bên kia dòng sông xa xa dõi lại.
Nàng khẽ nghiêng đầu.
Màn mưa như tấm lụa ướt đẫm, che mờ tầm mắt, cảnh vật trước mặt chỉ lờ mờ thấp thoáng.
Bờ bên kia, trên thân đê cao, có một nam tử toàn thân mặc cẩm y huyền sắc, vải gấm óng ánh dưới màn mưa ảm đạm lại càng thêm nổi bật. Thắt lưng gọn gàng, đai ngọc sáng ngời, khí thế khác hẳn thường nhân.
Hắn đứng dưới chiếc dù lớn, ánh mắt xuyên qua màn mưa, rơi thẳng về phía nàng, dường như muốn cố định bóng hình kia trong tầm mắt.
Song Đỗ Linh Tĩnh không thể từ khuôn mặt mơ hồ ấy nhận ra một tia quen thuộc nào.
Nàng vốn chẳng hề quen biết người này, liền quay sang hỏi nhỏ: “Nơi đây ngoài binh tướng đại doanh phụ cận, còn có…”
Ánh mắt lại lướt qua dáng người kia, khí phái hiển nhiên chẳng phải hạng thường. Hắn khoanh tay đứng trước, phía sau người hầu kẻ hạ theo sát. Đỗ Linh Tĩnh ngừng một thoáng: “…còn có bậc quý nhân?”
Thu Lâm lúc nãy mang đồ ăn đến, đã khéo léo hỏi thăm một câu, giờ hạ thấp giọng: “Cô nương, vị kia e rằng chính là… Vĩnh Định Hầu.”
“Chủ soái Tây Bắc Vĩnh Định quân?” Đỗ Linh Tĩnh khẽ nhướng mày: “Vĩnh Định Hầu Lục Thận Như?”
Thu Lâm thì thào: “Nghe nói mấy ngày trước Quý phi nương nương mang Tuệ Vương đến hành cung để trai giới lễ Phật. Nhưng tiết Trung thu sắp đến, nương nương cùng điện hạ tất phải kịp hồi cung. Nếu vỡ đê hoặc cầu bị phá, một đoàn người tất không thể về.”
“Cho nên là Lục hầu điều động binh mã phụ cận đến cứu hộ?”
Thu Lâm gật đầu.
Lục Quý phi vốn xuất thân Lục thị, chính là Vĩnh Định hầu phủ, trưởng tỷ cùng một mẹ với vị quân hầu trẻ tuổi kia.
Đỗ Linh Tĩnh hiểu rõ thân phận hoàng tộc quyền quý, liền không hỏi thêm nữa.
Vị Lục hầu ấy, chủ soái biên quân, cận thần ngự tiền, tuổi chỉ hai mươi lăm mà đã là võ tướng nắm trọng quyền.
Đỗ Linh Tĩnh cùng hắn vốn không quen biết. Đối diện bậc quyền thế ngập trời ấy, nàng cũng chẳng có ý muốn kết giao.
Mưa mịt mù che lấp tầm mắt. Đúng lúc bánh xe ngựa đã thoát khỏi bùn lầy, nàng trở lại xe, để mặc mưa lớn tiễn mình rời đi.
Xe ngựa càng đi xa, tiếng vó ngựa dần bị gió mưa nuốt mất, chỉ còn lại một hư ảnh trong rừng, lẫn vào cành lá, lay động trong gió mưa.
Công trình hộ đê đã hoàn thành hơn nửa phần, có tướng lãnh tiến lên bẩm báo: “Hầu gia yên tâm, đê này vững chắc. Sau khi mưa tạnh thuộc hạ sẽ lại kiểm tra cầu lớn trên đê, nương nương cùng Tuệ Vương điện hạ tất sẽ an ổn qua cầu.”
Tướng lãnh lo mình nói chưa hợp ý hầu gia, bèn lén đưa mắt quan sát.
Chỉ thấy vị hầu gia kia vẫn khoanh tay, ánh nhìn còn dõi về phía rừng bên bờ đối diện, chẳng rõ đang nhìn điều gì. Tướng lãnh còn đang do dự có nên hỏi, thì nam nhân đã thu ánh mắt trở lại.
Sắc mặt hắn như thường, song trong mắt lại thoáng nhu hòa, ánh nhìn phủ thêm vài phần ôn nhã.
Hắn khẽ mở lời: “Làm phiền rồi. Chư vị tướng sĩ vất vả, lần này vừa là hộ giá, vừa cứu giúp lê dân, Lục mỗ tất sẽ thay chư vị tâu rõ trước thánh thượng. Than củi, lương gạo sẽ lập tức gia cấp gấp đôi.”
Tiếng hắn trầm khàn hơn thường, nhưng ấm áp. Binh tướng vốn ngờ hầu gia tất kiêu căng quyền thế, nào ngờ một lời vừa khiêm cung vừa chu toàn, vừa tranh công cho tướng lãnh, lại còn lo thưởng cho binh lính.
Mọi người mừng rỡ khôn xiết: “Đa tạ hầu gia quan tâm! Tất theo lệnh hầu gia sai phái!”
Nam nhân chỉ khách khí dặn dò, bảo thân cận ở lại hỗ trợ: “Lục mỗ không tiện ở lâu, xin cáo lui trước.”
Hắn càng khiêm nhường, mọi người càng chẳng dám chậm trễ.
Tướng lãnh vốn định tiễn chân, lại thấy hầu gia giơ tay ngăn lại.
Vị Vĩnh Định hầu kia không ở thêm, vừa xoay người rời đi, ánh mắt dường như còn vô thức liếc thoáng qua rừng bên bờ đối diện vừa rồi.
*
Kinh thành.
Mưa lớn rào rạt nện vào khung cửa sổ. Nguyễn Cung chẳng nghe rõ đối diện nói gì, bèn hỏi lại:
“Ngươi vừa rồi nói, Đỗ gia sắp có đại hỉ sự, là khi nào?”
Người đối diện thấy sắc mặt đối phương bất ổn, liền cao giọng nhắc lại:
“Trong vòng mười ngày! Ta nói, trong vòng mười ngày Đỗ gia sẽ nhờ vào cọc đại hỉ sự này mà thăng tiến nhanh chóng!”
Hỉ sự vốn là chuyện khiến ai nấy vui mừng.
Nhưng Nguyễn Cung nghe xong thì mặt mày tái nhợt, lồng ngực đập dồn dập, sau lưng toát ra từng đợt mồ hôi lạnh khó phân lẫn với hơi nóng.
Duy Hứa Hầu Phu Nhân (Chỉ Nguyện Nàng Là Phu Nhân Hầu Phủ)
Chương 2: Hỉ Sự
Bạn có thể dùng phím mũi tên
hoặc WASD để
lùi/sang chương
