Nhiệt độ ngày một nóng hơn, nắng trưa gay gắt chiếu rọi những giàn tường vi khắp phố phường kinh đô, hoa nở rộ, sen tỏa hương, gió đêm nồng nàn, thoáng chốc đã đến tiết Lập Hạ.
Tạ Bích tay cầm quạt tre đứng trước cửa sổ, sâu trong đáy mắt lóe lên một tia u ám.
Khí trời dần ấm lên, nhưng trái ngược với nó lại là thái độ của thê tử đối với hắn.
Có lẽ là do quá đa nghi, Tạ Bích dạo gần đây luôn cảm nhận được cách Giang Vãn Nguyệt đối xử với mình đã khác trước.
Trước kia mỗi sáng thức dậy, bộ triều phục đã được Giang Vãn Nguyệt tự tay dùng lư hương hong kỹ, đặt ngay ngắn bên giường, ấm áp mà quyện theo hương thơm nhàn nhạt, không giống mùi hương tuyết mai mà hắn hay dùng, mà là mùi vị hòa quyện giữa quả tỳ bà và lá trà thường thấy trên y phục của Giang Vãn Nguyệt.
Mỗi khoảnh khắc khoác áo choàng lên người, Tạ Bích luôn có ảo giác như được thê tử nhẹ nhàng ôm lấy.
Nhưng gần đây, Giang Vãn Nguyệt không còn cố ý dậy sớm để hong ấm triều phục nữa.
Đầu hạ, ánh trăng rắc trên song cửa sổ chạm hoa, cơn gió hơi khô khốc từ từ thổi vào tấm rèm sa bên giường. Tạ Bích nửa nằm nửa ngồi trên giường, tay cầm một cuốn sách, vờ như vô ý hỏi: “Mấy hôm nay thức dậy, không thấy triều phục được xông hương?”
Giang Vãn Nguyệt nghiêng người, khẽ nói: “Vào hạ trời nóng, dùng lư hương hong quần áo không còn phù hợp nữa. Tuyết Ảnh mỗi ngày đều đặt hương hoàn* trong triều phục, cũng có thể lưu lại hương thơm.”
Hương hoàn*: viên thơm, túi thơm dạng viên nhỏ.
Tạ Bích siết chặt cuốn sách, sắc mặt trầm xuống, cười nói: “Có lẽ là đã quen mùi rồi, vẫn là nàng hong thì hợp hơn… Nàng dùng… là loại hương nào vậy?”
Giang Vãn Nguyệt cười khẽ lắc đầu: “Phu quân nói đùa rồi, đều là hương nhà nông thiếp tiện tay mua ở chợ phiên Vĩnh Châu, sao có thể so được với ngự hương của kinh thành.”
Tạ Bích cũng không tiện hỏi thêm, cười nói: “Vậy đợi mùa đông năm nay, lại phải phiền phu nhân hong quần áo rồi.”
Giang Vãn Nguyệt nở một nụ cười nhẹ bẫng, dung mạo diễm lệ được ánh trăng bao phủ, tựa như cách một tầng mây.
“Đúng rồi, ngày mai ta được nghỉ.” Trong lòng Tạ Bích dâng lên một nỗi bất an không tên, hắn đặt sách xuống, đi tới, ôm lấy vai thê tử dưới ánh đèn, khẽ nói: “Nàng đến Đông Đô lâu như vậy, vẫn chưa ra ngoài mấy.”
Hàng mi thanh mảnh của Giang Vãn Nguyệt rũ xuống.
Đến tận bây giờ nàng vẫn không thể quên được dáng vẻ Tạ Bích khẽ cau mày khi nàng mới đến kinh thành và nhắc đến đèn lồng.
Tạ Bích rất có khí độ và hàm dưỡng, nhưng trong khoảnh khắc đó, lại để lộ vẻ khinh thường và không kiên nhẫn trước sự thiếu hiểu biết của nàng.
Nhưng bây giờ nghĩ lại, không chỉ riêng nàng, mà bất kỳ ai khi đến một nơi mới, đều sẽ không hiểu rõ về phong vật xung quanh, đều sẽ lúng túng không biết làm sao.
Nếu Tạ Bích có lòng, hoàn toàn có thể chỉ điểm cho nàng.
Tạ phủ nằm gần hoàng thành, chỉ cần một tuần trà là có thể đi bộ đến con phố Kim Tước sầm uất nhất. Tạ Bích bụng chứa vô số thi thư, lúc nhàn đàm tự có thể kể cho nàng nghe những chuyện ở kinh thành.
Nhưng làm sao nàng có thể yêu cầu hắn được chứ?
Nàng lúc mới đến kinh thành, đối với hắn chỉ là một người xa lạ đột nhiên xuất hiện. Bây giờ, nàng cuối cùng cũng đợi được những lời này của Tạ Bích, đã được xem là hiếm có quý giá rồi phải không?
Giang Vãn Nguyệt khẽ cười: “Được, ngày mai chúng ta cùng nhau ra ngoài đi dạo.”
Vào ngày nghỉ của triều đình, từ Thủ phụ, cận thần cho đến quan nhỏ lại bé đều được nghỉ. Hôm đó trời quang mây tạnh, nắng ấm treo cao, không ít người ra ngoài du ngoạn ngắm hoa.
Hai người vốn định đến Kim Minh Trì, nào ngờ đến gần mới phát hiện xe ngựa xếp hàng dài không thấy điểm cuối, khắp nơi người đông như kiến. Giang Vãn Nguyệt vén rèm trên xe ngựa, nhìn đám người đông đúc hỗn loạn, nghĩ Tạ Bích thích yên tĩnh, bèn nói: “Đông người quá, với lại mấy hôm trước thiếp cũng vừa cùng A Văn họ đi rồi, hay là chúng ta đổi chỗ khác đi.”
Tạ Bích xa xa nhìn thấy đám người đã bắt đầu cau mày, tất nhiên là không muốn đến đó. Hắn suy nghĩ một lát liền nghĩ ra một nơi hay ho: “Cũng được, phía bắc thành có một hồ tên là Hương Hồ, xung quanh trồng đầy hoa sen, còn có thể chèo thuyền trên hồ sen nữa. Lần trước là Thôi Dạng đưa ta đến, nơi đó hẻo lánh, du khách rất ít.”
Giang Vãn Nguyệt gật đầu: “Vậy thì đến đó đi.”
Xe ngựa phi nhanh một mạch, đến nơi Tạ Bích nói, lại không thấy hồ đâu, chỉ thấy mấy con mương nhỏ hẹp, nước trong thấy đáy.
Tạ Bích xuống xe, khẽ nhíu mày, lạ lùng nói: “Ta nhớ Thôi Dạng đưa ta đến chính là nơi này, sao lại không thấy hồ?”
Trúc Tây cũng xuống xe, đứng trên một tảng đá lớn nheo mắt nhìn xa: “Lang quân, chỗ này trông không giống có hồ đâu ạ, có phải ngài và Thôi lang quân đến đây vào ban đêm, lại còn uống say nên nhớ nhầm không?”
Tạ Bích cau mày, kiên quyết nói: “Chỗ này có hồ, bên bờ hồ còn có một chiếc thuyền nhỏ không chủ.”
Hai người họ còn chèo thuyền trên hồ, uống rượu thổi sáo.
Giang Vãn Nguyệt tay cầm quạt tròn từ từ đi lên chỗ cao, nhìn đám lau sậy một lúc không thấy điểm cuối: “Hồ ở đây có phải không có ai trông coi không?”
Tạ Bích gật đầu: “Rất ít người đặt chân đến đây.”
Giang Vãn Nguyệt trầm ngâm, cúi mắt nhìn con mương uốn lượn trên mặt đất: “Mương nước trên mặt hồ có hai dòng ra và vào, con mương này nhất định là dòng nước ra.”
Trúc Tây không nhịn được hỏi: “Tại sao lại là dòng nước ra ạ?”
“Chỉ có bên hồ mới có lau sậy, ngươi xem trong nước có lá lau trôi nổi, chắc là bị cuốn theo khi chảy qua bờ hồ.” Giang Vãn Nguyệt mặc một bộ váy lụa nguyệt hoa màu xanh biếc, gò má thanh tú mềm mại dưới nắng hè càng thêm hoàn mỹ: “Nếu mặt hồ không có ai dọn dẹp, sẽ còn có rong rêu hoặc tạp chất như tôm cá tích tụ, dòng nước ra sẽ có màu hơi trắng đục.”
Trúc Tây trố mắt: “Nô tài thấy nước trong mương này cũng trong lắm mà.”
Tạ Bích khẽ cau mày, hắn không muốn thê tử bị người khác phản bác nghi ngờ, không ngờ Giang Vãn Nguyệt lại chẳng hề để tâm, cười nói: “Chưa so sánh thì không thấy được, đợi tìm được hồ, ngươi có thể xem thử.”
Tạ Bích có ấn tượng sâu sắc với lau sậy, trầm ngâm nói: “Bên bờ quả thật có lau sậy, chỉ là không biết phải đi đường nào?”
Giang Vãn Nguyệt khẽ nói: “Thiếp áng chừng biết đường.”
Trúc Tây cầm một cây gậy tre đi trước rẽ đám lau sậy ra, Giang Vãn Nguyệt xách váy theo sau chỉ đường, Tạ Bích đi bên cạnh nàng. Ba người luồn lách trong biển lau sậy tựa như sóng biếc, không phân biệt được đông tây, chỉ có con mương trong vắt lặng lẽ chảy bên chân.
Dưới vòng vây của núi non xa xa, một mặt hồ rộng lớn hiện ra trước mắt, mặt hồ xanh biếc lấp lánh dưới ánh mặt trời. Hạc trắng, ngỗng xám và các loài chim nước đang khoe dáng trên mặt hồ, bay lượn lên xuống. Hai bên bờ, những chiếc lá sen xanh biếc như những chiếc đĩa ngọc bích lần lượt bung nở, thỉnh thoảng có con chim bay đến đậu trên lá sen, cảnh đẹp như tranh vẽ.
Trúc Tây luôn miệng khen ngợi: “Có thể thấy được cảnh đẹp thế này, đều là nhờ phu nhân.”
Tạ Bích bất giác nhìn sang gò má của thê tử. Vốn nghĩ nơi này đường xa đất hẻo lánh, thê tử chắc sẽ kêu khổ kêu mệt, nào ngờ nàng suốt đường đi tư duy minh mẫn, bước chân nhẹ nhàng, lại còn dẫn cả mình suýt lạc đường tìm đến được bờ hồ.
Trước đây hắn chỉ cảm thấy thê tử đến từ thôn quê, không biết gì, bây giờ xem ra, cũng là nghĩ oan cho nàng rồi.
Ít nhất những kiến thức thôn dã liên quan đến nước, nàng vẫn hiểu được mấy phần.
Sương nước lượn lờ, nước biếc sen hè, chỉ có một chiếc thuyền nhỏ đậu bên bờ.
Ba người Tạ Bích lên thuyền, Tạ Bích hăm hở cười nói: “Lần trước ta và Thôi Dạng đến, ngồi chính là chiếc thuyền nhỏ này, lần này ta chèo thuyền đưa các người đi.”
Trúc Tây lần đầu tiên lên một chiếc thuyền độc mộc nhỏ, nhìn bóng người phản chiếu dưới nước, có chút sợ hãi: “Lang… lang quân, ngài có được không vậy?”
Tạ Bích cười: “E là không được lắm, ngươi đã lên thuyền giặc rồi, thì cứ phó mặc cho số phận đi.”
Trên mặt Trúc Tây thoáng vẻ hoảng loạn, nhưng khi thấy Giang Vãn Nguyệt yên tĩnh ngồi trên thuyền, hắn ta lại lập tức yên lòng: “Có phu nhân, nô tài mới không sợ.”
Trúc Tây biết Giang Vãn Nguyệt lớn lên bên hồ, điều khiển một chiếc thuyền độc mộc nhỏ, chắc chắn không thành vấn đề.
Giang Vãn Nguyệt khẽ cong môi.
Lúc này, cảm giác dâng lên trong lòng thật kỳ diệu.
Nàng cũng có sở trường của riêng mình.
Nàng cũng có thể được người khác tin cậy, được người khác trông vào.
Ở Tạ phủ, ở cái Đông Đô rộng lớn này, nàng rất ít khi cảm nhận được cảm giác này.
Tạ Bích hơi vụng về khua mái chèo, hướng về phía sâu trong làn nước biếc bao phủ bởi hương sen. Trúc Tây ngồi trên thuyền, ném đá vào đàn chim nước. Đàn chim vỗ cánh ào ào, bay lên trời. Giang Vãn Nguyệt ngồi trên thuyền, nhìn những bóng sen trôi nổi xung quanh và đám lau sậy xa không thấy điểm cuối, trong thoáng chốc như trở về Bích Lung Hạp.
Lúc này, giọng nói trầm thấp của Tạ Bích vang lên: “Ở Bích Lung Hạp, nàng đã từng ngồi thuyền nan chưa?”
Giang Vãn Nguyệt sững sờ, đây là lần đầu tiên Tạ Bích chủ động nhắc đến quê hương nàng, chủ động hỏi han những chuyện vặt vãnh ngày xưa của nàng. Giang Vãn Nguyệt mỉm cười đáp: “Ngồi rồi, từ nhỏ đã chèo thuyền nan chơi, cũng thường ngồi thuyền nan đi bắt cá.”
Trước khi xuất phát, người Bích Lung Hạp sẽ dùng cỏ buộc chim ưng để buộc vào cổ chim ưng, một người một thuyền một con ưng, đi về phía sâu trong hồ. Lúc trở về, khoang thuyền đã đầy ắp cá.
Tạ Bích nhìn thê tử có làn da trắng ngần không tì vết, diễm lệ mềm mại, suy nghĩ rồi hỏi: “Hồ sâu sóng lớn, nàng không sợ sao?”
Giang Vãn Nguyệt cười đáp: “Người ở Bích Lung Hạp, từ nhỏ đã biết bơi, ai ai cũng biết chèo thuyền, tài bơi lội đều rất giỏi, sao lại sợ nước được chứ?”
Tạ Bích gật đầu cười nói: “Gối đầu lên sóng nước mà ngủ, cũng là một chuyện hay.”
“Nàng còn biết bắt cá sao?” Tạ Bích khó có thể tưởng tượng một người thê tử khi cười lên có lúm đồng điếu dịu dàng lại biết bắt cá, có chút tò mò, cũng có mấy phần không tin: “Bắt thế nào?”
Gò má Giang Vãn Nguyệt phản chiếu ánh sáng lấp lánh trên mặt hồ, mái tóc óng lên ánh vàng dịu dàng: “Người lái thuyền sẽ gõ vào mạn thuyền trước, cá cảm thấy mặt hồ có nguy hiểm, sẽ lặn sâu xuống — điều này lại vừa đúng ý chúng ta, chim ưng giỏi nhất là lao xuống bắt cá ở vùng nước sâu, chim ưng lặn vào ổ cá, trong nháy mắt đã bắt được cá…”
Tạ Bích yên lặng lắng nghe, trong mắt đột nhiên lóe lên một tia sáng, như đã lĩnh ngộ được điều gì đó.
Lúc trở về, Trúc Tây nhận lấy mái chèo. Tạ Bích nhìn nước biếc hoa sen, lau sậy đầy bờ, cười nói: “Tiếc là hôm nay không mang sáo, cảnh đẹp thế này, nên có một khúc nhạc đi kèm.”
Giang Vãn Nguyệt sững người, bất giác nhớ lại dáng vẻ Tạ Bích thổi sáo dưới trăng đêm đầu gặp gỡ.
Trúc Tây cười đưa cho Tạ Bích mấy cọng lau sậy hắn vừa ngắt, cười nói: “Lang quân, sáo có sẵn đây, không phải người ta nói dùng lau sậy làm sáo, có thể thổi vạn khúc nhạc sao?”
Tạ Bích cũng không chê, lau lau rồi đặt lên môi, nhưng lại thổi ra âm điệu đơn điệu chói tai, hoàn toàn không có sự uyển chuyển lên xuống của âm luật.
Tạ Bích bật cười: “Chắc là truyền thuyết thôi, đừng nói vạn khúc, ta còn chưa thấy ai dùng sáo lau thổi được một khúc nào.”
Giang Vãn Nguyệt nhận lấy, chiếc lá lau xanh mướt tỏa hương thơm mát, nàng đặt lá lau lên môi, một khúc nhạc quen thuộc đã tuôn chảy ra.
Một khúc nhạc kết thúc, Tạ Bích nhìn Giang Vãn Nguyệt chăm chú, ngạc nhiên hỏi: “Nàng học được khúc nhạc này từ khi nào?”
Giang Vãn Nguyệt mỉm cười.
Trong vô số ngày đêm ở Bích Lung Hạp, nàng hoặc hái lá lau, hoặc cầm sáo tre, đối diện với gió mát hồ biếc, đã thổi khúc nhạc này vô số lần.
Tạ Bích nói: “Khúc nhạc này chỉ lưu truyền ở kinh thành, ta thấy nàng sau khi đến kinh thành, chưa từng thổi khúc nhạc này, học được từ khi nào vậy?”
Giang Vãn Nguyệt nhàn nhạt nói: “Hồi ở Bích Lung Hạp, thiếp từng nghe người khác thổi, lúc đó thấy hay nên cũng luyện tập.”
Trúc Tây không nhịn được nữa, cười nói: “Phu nhân còn chưa biết sao, khúc nhạc này tên là Tá Nguyệt, là do lang quân của chúng ta sáng tác đó ạ.”
Phu nhân và lang quân của họ thật có duyên, phu nhân ở tận Bích Lung Hạp, chưa từng gặp mặt, lại vừa hay học được khúc nhạc của lang quân.
Trong lòng Tạ Bích gợn lên những con sóng, hắn nhìn Giang Vãn Nguyệt chăm chú: “Hôm khác ta thổi cho nàng nghe nhé.”
Giang Vãn Nguyệt từ từ siết chặt lá lau.
Khi đó hắn thanh tú thoát tục, một mình đối diện với gió mát trăng thanh, khúc nhạc trong trẻo, tay áo bay bay. Nàng nhỏ bé thận trọng, trốn trong bóng tối của bụi lau ven bờ lặng lẽ ngước nhìn.
Nhưng bây giờ, hắn muốn thổi khúc nhạc đó cho nàng nghe.
Giang Vãn Nguyệt cúi mắt, khẽ nói: “Được.”
Tạ Bích cúi mắt, nhìn bóng Giang Vãn Nguyệt phản chiếu trên mặt sóng biếc, trong lòng đột nhiên dâng lên một niềm mong đợi.
Lần sau hắn vẫn muốn cùng thê tử đến chèo thuyền.
Sẽ không để Trúc Tây đi theo nữa.
Trên mặt hồ vắng bóng người này, chỉ có hai người họ.
Hắn thổi sáo, nàng cũng có thể thỏa thích hát nhưng bản thuyền khúc cho hắn nghe.
Khóe môi Tạ Bích nở nụ cười, đôi mắt như phản chiếu ánh nắng vụn trên mặt hồ.
Ba người lên bờ, Trúc Tây lúc lên bờ bị lá lau đâm vào bắp chân, liền nhổ mấy cọng lau lên rồi buột miệng oán trách: “Hừ! Đáng lẽ phải đốt sạch các người đi!”
Giang Vãn Nguyệt lại nghiêm túc nói: “Lau sậy rất tốt, đừng nói như vậy.”
Tạ Bích cười nói: “Phu nhân đừng để ý đến tên phàm tục Trúc Tây này, người xưa có thơ, ‘ Dạng dạng phiếm lăng hạnh, Trừng trừng ánh gia vĩ’* , phu nhân từng đọc qua chưa?”
‘ Dạng dạng phiếm lăng hạnh, Trừng trừng ánh gia vĩ’*: Sóng gợn lăn tăn, ấu hạnh nổi trôi; Lòng sông trong vắt, lau sậy soi mình.
Giang Vãn Nguyệt lắc đầu: “Chưa từng đọc, thiếp chỉ biết thân lau có thể làm thành chiếu lợp mái nhà, có thể chống mưa chống nước.”
“Thứ có thể giúp người cứu người, nhất định là thứ tốt.”
Trúc Tây nhìn hai người cười rộ lên.
Tạ Bích nhướng mày nhìn hắn ta.
Trúc Tây cười nói: “Lang quân nói toàn là đạo lý lớn trong sách vở, còn phu nhân nói toàn là những cách sinh sống trong dân gian.”
Tạ Bích cười lắc đầu: “Những gì phu nhân nói, kinh bang tế thế*, mới là đạo lý lớn nằm ở sự giản đơn.”
Kinh bang tế thế*: giúp đời, giúp người
Hoàng hôn rực rỡ như vàng nóng chảy, Tạ Bích nhìn Giang Vãn Nguyệt trong ánh tà dương.
Người khác đều nói thê tử của hắn rất đẹp, hắn không tỏ ý kiến gì, nhưng lúc này lại không thể không thừa nhận, ngũ quan của Giang Vãn Nguyệt kinh diễm xuất chúng, đuôi mắt thanh tú hơi xếch lên, khuôn mặt thon thả mềm mại nhỏ nhắn, khiến người ta thấy mà thương. Đôi môi son như ngậm ngọc, đầy đặn tròn trịa.
Độc đáo nhất là đôi mày của Giang Vãn Nguyệt, cung mày của nàng hơi cao, đôi mày không giống như của các quý nữ kinh thành mờ nhạt, nhạt như trăng khuyết, mà là đôi mày dài rậm và rõ nét.
Cũng vì đôi mày này, mà trong vẻ ngây thơ mềm mại của nàng lại toát ra một nét bướng bỉnh.
Tạ Bích dời mắt đi: “Trên đường về phủ vừa hay đi qua trang viên, cùng nhau đến xem thử?”
Đại Phúc vẫn đang được nuôi ở trang viên, Tạ Bích cũng biết Giang Vãn Nguyệt nhớ nó. Hai người đến trang viên, còn chưa xuống xe ngựa, Đại Phúc đã chạy bổ ra, cái đầu lông xù của nó ra sức dụi vào váy áo Giang Vãn Nguyệt.
Đây là trang viên ngày xưa của nhà họ Giang, nay đã dần hoang phế, có bảy lớp sân trước sau, nơi chốn rất rộng rãi. Ngày thường có bốn năm bà lão quét dọn, còn có hai ba người chuyên phụ trách việc ăn chơi của Đại Phúc.
Hai người đi ra khỏi trang viên, đi vài bước là đến bờ Tây Hà cạnh đó. Lần này bờ Tây Hà lại rất náo nhiệt, xa xa thấy mấy chiếc thuyền lớn hai ba tầng có mái cong, góc thuyền treo đèn lồng tua rua đỏ, mỗi tầng đều là song cửa sổ chạm hoa màu xanh sẫm. Tiếng đàn ca sáo nhị trên thuyền văng vẳng truyền đến. Giang Vãn Nguyệt nói: “Tây Hà trông hẻo lánh, mà buổi tối lại náo nhiệt thế?”
Tạ Bích gật đầu: “Thuyền hát cao hơn năm mét thì không được phép đi trong các con sông nội thành kinh thành, chỉ có thể ở Tây Hà, không bị quản thúc. Tây Hà hẻo lánh, ven sông đa phần là những dinh thự bỏ hoang, cũng chỉ náo nhiệt vào khoảng giờ Tuất, đến tối thì vài dặm cũng không một bóng người.”
Giang Vãn Nguyệt đã quen nhìn những con thuyền lớn chở hàng chở người, nhưng lại ít khi thấy loại thuyền hát thanh nhã tinh xảo thế này, không khỏi nhìn thêm vài lần.
“Mẫu thân cũng nói muốn đến đây một chuyến.” Tạ Bích thấy Giang Vãn Nguyệt có vẻ hứng thú, cười nói: “Hôm khác nhà chúng ta cũng bao thuyền đi giải khuây.”
Hai người lại xuống xe ngựa trên con phố sầm uất của Đông Đô. Hai người đi dọc theo phố, Tạ Bích dừng lại trước một cửa hàng tên là Hậu Trân, nói: “Thịt nướng của quán này vị rất ngon, chỉ là nổi tiếng quá, nên hơi đông người.”
Giang Vãn Nguyệt nhìn bảng hiệu, cười nói: “Quán này thiếp biết, cữu cữu của thiếp áp tải hàng đến đây mấy lần, lần nào cũng đến quán này dùng bữa, nói là danh tiếng rất lớn.”
Hai người đợi một lát mới có chỗ, tiểu nhị trước khi dọn món ăn đã mang lên một đĩa đậu tằm. Tạ Bích lần đầu tiên nếm thử đậu tằm ở quán, cười nói với Giang Vãn Nguyệt: “Còn kém hơn tay nghề của nàng một chút.”
Hai người ăn xong thịt nướng cùng nhau bước ra khỏi quán, bầu trời đêm lất phất mưa phùn, làm ướt nhẹ áo. Tạ Bích mở ô, không khỏi thầm thán phục: “Vãn Nguyệt, trận mưa này cũng bị nàng đoán trúng rồi.”
Vừa rồi lúc hai người từ trang viên ra, Giang Vãn Nguyệt đã xin một chiếc ô, nói là vừa thấy cá trên mặt hồ đua nhau trồi lên mặt nước thở, là cảnh tượng trước cơn mưa.
Không ngờ lại bị nàng nói trúng phóc.
Tạ Bích dưới ô nhìn Giang Vãn Nguyệt, khẽ cảm thán: “Trong phủ cũng có một hồ cá chép gấm, có nàng ở đây, vi phu đời này sẽ không bị ướt mưa nữa.”
Hai người dưới ô nhìn nhau, Giang Vãn Nguyệt dời mắt đi, phối hợp cười đáp: “Vì để phu quân không bị mưa ướt áo, thiếp nguyện ngày ngày ngắm hồ.”
Lại qua hai ngày, kinh thành ngày một nóng hơn, ve kêu trong bóng cây, hương sen đầy hồ, thấm thoắt đã đến tiết Tiểu Thử.
Tiết Tiểu Thử* vừa hay là sinh thần của Giang Vãn Nguyệt, còn chưa đến Tiểu Thử, Nhược San đã đến tặng quà mừng cho nàng.
Tiết tiểu thử*: vào ngày 6, 7, 8 tháng 7
Giang Vãn Nguyệt vô cùng ngạc nhiên: “Sao cô nương biết sinh thần của ta?”
“Bà mẫu của tỷ mấy ngày nay ra ngoài, luôn nhắc đến sinh thần của ry.” Nhược San cười nói: “Một lòng muốn tổ chức cho tỷ đấy.”
Trong mắt Giang Vãn Nguyệt thoáng qua một tia khó hiểu.
Bà mẫu không phải là người nhiệt tình tổ chức tiệc sinh nhật cho nàng, cớ sao cả kinh thành đều biết.
Nhược San dường như nhận ra sự nghi hoặc của Giang Vãn Nguyệt, cười nói: “Đây là sinh thần đầu tiên của tỷ sau khi đến kinh thành, bà ấy tất nhiên phải nhân cơ hội này, để cả kinh thành đều biết bà ấy không hề bạc đãi tỷ.”
Giang Vãn Nguyệt lập tức hiểu ra.
Bất kể trong phủ thế nào, cuộc hôn nhân này dù sao cũng được Hoàng đế ngầm chấp thuận, nhà họ Tạ dù xét ở phương diện nào, bên ngoài cũng phải giữ được danh tiếng đối xử tốt với tân tức phụ.
Ngày sinh thần tự nhiên là cơ hội tốt nhất.
Giang Vãn Nguyệt không có ý định đối đầu với bà mẫu, đến ngày sinh thần, nàng cứ ở trước mặt người ngoài phối hợp tốt với bà mẫu là được.
Nào ngờ Tạ Bích sau khi tan triều lại nói, Hoàng hậu cũng vừa hay đón lễ vạn thọ vào tiết Tiểu Thử, Hoàng đế biết Hoàng hậu và Giang Vãn Nguyệt cùng ngày sinh thần, bèn cho gọi Giang Vãn Nguyệt vào ngày sinh thần đến cung dự yến, cùng nhau chúc mừng.
