Tạ Bích lần này ra khỏi Đại Lý Tự, khó tránh khỏi phải qua lại trong cung, cũng như lui tới nhiều nơi trong kinh thành.
Ở Đông Đô, tin tốt chưa chắc đã có người biết, nhưng vận rủi thì lại được người ta thêu dệt, truyền đi khắp nơi.
Tạ Bích chọc giận Bệ hạ, bị giam vào Đại Lý Tự, không biết giới quan lại quyền quý trong kinh thành sẽ đồn đại thế nào. Hắn đến các phủ đệ một lượt, một là để các thế lực thuộc phe nhà họ Tạ yên tâm, hai là vì những người này đa phần là môn sinh tâm phúc của phụ thân hắn, đối với tộc Bắc Nhung đều cố gắng chủ hòa. Tạ Bích kiên quyết đòi nghênh chiến không chỉ chọc giận Hoàng đế mà còn làm nguội lạnh trái tim của những người này, hắn ra mặt giải thích một phen cũng có thể tránh nảy sinh hiềm khích.
Ngoài ra, hắn còn phải đến chỗ Tĩnh Ninh Đế để chính thức tạ ơn.
Giang Vãn Nguyệt dù không rành thế sự cũng biết những ngày gần đây hắn khó tránh khỏi nhiều cuộc xã giao.
Giới quyền quý Đông Đô rất coi trọng việc phu thê như một thể thống nhất, nếu trong phủ có chính thê, phu thê thường cùng ra cùng vào, cùng nhau xã giao khách sáo.
Thế nhưng mấy ngày nay Tạ Bích ngày nào cũng ra ngoài, lại chưa từng nói sẽ đưa nàng đi cùng đến nơi nào.
Giang Vãn Nguyệt đắn đo hồi lâu, cuối cùng lấy hết can đảm bước lên hỏi: “Phu quân, gần đây có tiệc tùng xã giao gì không ạ? Có cần thiếp đi cùng không?”
Đầu ngón tay như ngọc của Tạ Bích vén rèm xe lên, đôi mắt màu hổ phách lướt qua Giang Vãn Nguyệt. Nàng khoác một chiếc áo choàng viền lông cáo trắng muốt, càng làm tôn lên mái tóc mây và gương mặt hoa. Tạ Bích hờ hững dời mắt đi: “Không cần, đều là bằng hữu quen biết trên quan trường, ta chỉ cần đến một lát là được rồi.”
Lòng Giang Vãn Nguyệt trầm xuống. Nàng đã đoán Tạ Bích sẽ nói như vậy, nhưng vẫn cố gắng trấn tĩnh, dịu dàng nhắc nhở: “Nhưng mấy vị phu nhân ở Đông Đô đã cho người gửi thiệp mời đến cho thiếp, nếu thiếp không xuất hiện, liệu có… lời ra tiếng vào không tốt cho phu quân không…”
“Sẽ không,” giọng Tạ Bích lạnh nhạt, đôi mày thanh tú khẽ cau lại: “Từ chối hết đi, cứ nói nàng bị bệnh ở nhà.”
Nói xong, ngón tay tựa ngọc trắng rời đi, rèm xe đột ngột buông xuống.
Giang Vãn Nguyệt ngẩn ngơ gật đầu, một lúc lâu sau mới nhớ ra Tạ Bích đã che rèm xe.
Cái gật đầu của nàng, có lẽ hắn cũng chẳng nhìn thấy.
Nhưng… cũng chẳng sao cả.
Hắn đã quyết định rồi, nàng chỉ cần làm theo là được, hắn cũng sẽ không quan tâm nàng có dị nghị gì không.
Cơn gió thu se lạnh thổi vào mặt, khiến cổ họng Giang Vãn Nguyệt ngưa ngứa, lại ho khan vài tiếng.
Thu Ly đứng bên cạnh vội đưa lò sưởi tay vào lòng Giang Vãn Nguyệt, khẽ nói: “Phu nhân, ở đây gió lớn, chúng ta về phủ trước đi ạ.”
Giang Vãn Nguyệt cúi mắt, khóe môi nở một nụ cười chua chát.
Khi mới thành thân, trong kinh thành cũng từng có một buổi thi hội mời nàng tham dự. Lúc đó, Giang Vãn Nguyệt còn tò mò về mọi thứ, lại không biết nông sâu, lòng đầy mong chờ mà đi từ sớm.
Ai ngờ thi hội đó yêu cầu phải đề thơ viết chữ. Chưa nói đến thơ của nàng thế nào, chỉ riêng nét chữ không mấy quy củ của nàng đã đủ để các quý nữ kinh thành khinh miệt chế nhạo.
Giang Vãn Nguyệt vẫn còn nhớ, chữ của nàng, thơ của nàng bị người ta chuyền tay nhau xem trong thi hội, chuyền đến đâu là lại dấy lên một tràng cười không hề che giấu.
Nàng cúi đầu, lòng đầy xấu hổ và áy náy.
Hóa ra kinh thành và Bích Lung Hạp thật sự là hai thế giới khác biệt.
Nếu chỉ liên quan đến bản thân nàng thì cũng chẳng sao.
Dù viết chữ không đẹp, nhưng ở Bích Lung Hạp, nàng cũng biết đan tre, biết bắt cá đóng thuyền…
Nhưng Tạ Bích lại là tài tử trẻ tuổi nổi danh khắp kinh thành, còn thê tử hắn lại là một kẻ th* t*c không biết thi văn…
Có phải nàng lại làm mất mặt hắn rồi không?
Hôm đó sau khi về nhà, Giang Vãn Nguyệt như một phạm nhân tự thú, rụt rè áy náy kể lại chuyện này với Tạ Bích.
Tạ Bích không hề trách nàng, chỉ lạnh nhạt nói: “Ai cũng có việc mình không giỏi, nhưng ở Đông Đô, nàng phải biết giấu đi sự vụng về của mình. Có những nơi, vốn dĩ nàng không nên đến.”
Giang Vãn Nguyệt sững người.
Tạ Bích không hề trách mắng, nhưng mấy câu nói bình thản lạnh lùng này lại khiến nàng khó chịu hơn cả bị mắng.
Từ đó về sau, Giang Vãn Nguyệt cố ý tránh né rất nhiều dịp xã giao ở Đông Đô, cũng dần mất đi sự hứng khởi như lúc mới đến.
Thi từ thư họa, là sự vụng về mà nàng phải che giấu.
Còn bản thân nàng, có lẽ, chính là sự vụng về mà Tạ Bích muốn che giấu đi chăng?
Nghĩ đến đây, cảm xúc trong lòng Giang Vãn Nguyệt cuộn trào, lại không kìm được mà ho khan vài tiếng, đến cả vành mắt cũng đỏ lên.
Nửa năm nay, nàng khổ luyện lễ nghi Đông Đô, ngay cả Ngân Thiềm cũng nói, dáng vẻ của nàng còn đẹp hơn cả những tiểu thư khuê các ở kinh thành.
Vậy mà Tạ Bích, vẫn chưa từng đưa nàng cùng ra ngoài.
Hắn thậm chí còn chưa từng nhận ra nàng đã đoan trang, phóng khoáng hơn xưa…
Thu Ly đứng bên cạnh thấy vành mắt Giang Vãn Nguyệt ửng đỏ, vội cười nói: “Phu nhân đừng buồn, dù không được cùng ra ngoài, cả kinh thành này cũng biết người là chính thất phu nhân của lang quân, là sự tôn quý thể diện duy nhất. Các tiểu thư khuê các trong kinh thành đều ngưỡng mộ phu nhân có một lang quân tốt đấy ạ.”
Giang Vãn Nguyệt khẽ “ừ” một tiếng, gượng cười: “Ừm, không sao đâu.”
Nàng không muốn bị người ta ngưỡng mộ bàn tán.
Nàng cũng không thích khoe khoang rêu rao.
Nàng chỉ… muốn được sánh bước bên cạnh Tạ Bích, như một thê tử thực thụ, cùng hắn tiến lui trước mặt mọi người.
Nhưng đây đều là những suy nghĩ tham lam của nàng, không nên để Tạ Bích phải mạo hiểm mất mặt để chiều theo ý nàng.
Lần này Tạ Bích không phải đi gặp các đồng liêu ở Đông Đô, mà là vào cung bái kiến Tĩnh Ninh Đế.
Phụ thân của Tạ Bích là Thủ phụ, mẫu thân Kim Phúc quận chúa lại là đường tỷ của Tĩnh Ninh Đế, nên từ nhỏ hắn đã thường xuyên vào cung. Tĩnh Ninh Đế xưa nay vẫn đối xử với hắn rất thân thiết, việc đột nhiên hạ lệnh giam hắn vào ngục trên triều đình là lần đầu tiên tỏ rõ cơn thịnh nộ.
Tĩnh Ninh Đế nhìn ngoại sanh* thanh tú, giọng điệu vẫn không khác ngày thường là bao: “Đứng lên đi, lần này cũng là cho ngươi một bài học. Chưa nói đến thân là bề tôi, chỉ nói đến thân là nhi tử, sao có thể dễ dàng thay đổi tâm nguyện của phụ thân chứ?”
Ngoại sanh*: Cháu trai bên ngoại
Tạ Bích chắp tay, khẽ đáp: “Là thần l* m*ng.”
Tĩnh Ninh Đế gật đầu: “Đánh giặc không thể chỉ dựa vào một lúc nóng giận. Một khi khai chiến, bá tánh ở biên cương chắc chắn sẽ khổ không kể xiết, lại phải trưng thu thuế má, đi phu dịch. Nay nộp tuế tệ* cũng là để giữ yên ổn một phương, sau này ngươi sẽ là người ra tướng vào tướng, lẽ nào không nhìn ra tấm lòng yêu dân của triều đình sao?”
Tuế tuệ*: Thường là cống phẩm từ các nước yếu hơn dâng cho các nước mạnh hơn
Triều đình năm nào cũng nộp tuế tệ cho Bắc Nhung, nhưng lại tự cho mình là thiên triều thượng quốc, sở dĩ chưa khai chiến với Bắc Nhung không phải vì sợ địch, mà là vì nghĩ cho bá tánh.
Tạ Bích không kìm được nói: “Bệ hạ, phụ mẫu yêu con, ắt sẽ lo liệu đường dài cho con. Bệ hạ có tấm lòng yêu dân, nhưng tuế tệ không phải là chuyện một sớm một chiều. Thuế má hàng năm đã khiến bá tánh khổ sở vô cùng, số tiền này lại nuôi ngựa, nuôi binh của Bắc Nhung, đây tuyệt không phải là kế lâu dài. Nếu sau này một khi khai chiến, triều đình sẽ đối phó ra sao?”
“Hỗn xược!” Sắc mặt Hoàng đế sầm xuống: “Biên cương đã giao hảo hòa bình, sao lại có thể khai chiến? Chuyện này không phải việc ngươi nên hỏi, cũng không cần ngươi nhúng tay.”
Tạ Bích từ từ siết chặt tay, im lặng một lúc lâu.
“Không nói chuyện triều chính nữa.” Hoàng đế phẩy tay, hòa hoãn sắc mặt nói: “Phu nhân của Hà Tương, cũng là Thủ phụ, dẫn nhi tử đến thăm Hoàng hậu, trẫm cũng qua xem sao… Nói đến ngươi, thành hôn cũng gần một năm rồi, lại đang tuổi xuân sức dài, đợi có lân nhi* thì bế vào cung cho trẫm xem.”
Lân nhi*: quý tử
Đợi Tạ Bích ra khỏi cung, Vương công công bên cạnh Hoàng đế mới ghé lại gần khẽ nói: “Tạ đại nhân, Bệ hạ biết ngài ban đêm ngủ lại thư phòng nên đã nổi giận.”
Tạ Bích khẽ nhíu mày.
Đây vốn là chuyện riêng của hắn, vậy mà Hoàng đế cũng bóng gió muốn can thiệp.
Cuộc hôn nhân này của hắn sở dĩ thành được cũng có quan hệ mật thiết với Tĩnh Ninh Đế.
Nhà họ Tạ giữ chức Thủ phụ, môn sinh trải rộng khắp triều đình, Hoàng đế vừa không muốn nhà họ Tạ kết thân với võ tướng biên ải để trong ngoài cấu kết, cũng không muốn nhà họ Tạ kết thân thêm với văn quan để lập bè kết phái. Hắn và con gái nhà họ Tần qua lại thân thiết, nhưng nhà họ Tần xuất thân văn quan lại nắm giữ quân vụ ở Đàm Châu, chạm phải cả hai điều kiêng kỵ của Hoàng đế.
Sau đó vừa hay cữu cữu của nhà họ Giang cầm tín vật đến kinh thành, nhà họ Tạ và nhà thường dân liên hôn, Tĩnh Ninh Đế dĩ nhiên vui mừng.
Đây cũng là lý do tại sao hôn ước giữa hai nhà Tạ – Giang lại có thể nhanh chóng lan truyền khắp Đông Đô.
Nhà họ Tạ hiểu ý của đế vương, cũng biết lui để bảo toàn bản thân, liền thuận thế nhanh chóng kết thân với nhà họ Giang.
Dương Hàn và Thôi Dạng đều đang phê duyệt tấu chương ở ngoài điện, thấy Tạ Bích vừa ra, hai người lập tức tiến lại, ba người sóng vai cùng nhau ra khỏi cung.
Cả hai người họ đều xuất thân từ thế gia ở Đông Đô, cũng là môn sinh của Tạ Thủ phụ, rất thân thiết với Tạ Bích.
Thôi Dạng thở dài: “Ngươi có biết lần này nguy hiểm thế nào không, cũng may nhờ có điệu múa hạc trong buổi khai viên khiến Bệ hạ vô cùng vui vẻ, mới chịu khai ân thả ngươi từ Đại Lý Tự ra.”
Tạ Bích chỉ cười nhạt, không tỏ ý kiến.
Thôi Dạng vừa than thở vừa khen ngợi: “Người đời thường nói hạc tính tình cao ngạo, đâu phải dễ thuần hóa? Huống chi là bắt chúng nó bay lượn trên mặt hồ để múa dâng lên!”
Tạ Bích chưa từng nghĩ kỹ về sự khó khăn trong đó, nghe bạn nói vậy, Hắn trầm ngâm: “Chuyện này khó khăn như vậy, làm sao mà thành được?”
“Nói ra thì vẫn là Thái công công có cách. Hạc thích nhất là cá Thải Vĩ, hơn nữa đuôi cá Thải Vĩ dưới ánh mặt trời có thể phản chiếu ba bốn màu sắc. Thái công công đã cho cung nữ bỏ trước những con cá này vào trong vại, sau đó đặt những chiếc vại lưu ly ở mấy vị trí cố định dưới hồ. Hạc bị ánh nước phản chiếu thu hút, nhưng nhất thời không tìm được cá ở đâu, vì thế mới bay lượn lên xuống. Vì điệu múa hạc này mà tốn không ít công sức đâu.”
Tạ Bích từ từ nhíu mày: “Ta nghe nói loại cá Thải Vĩ này, chỉ có ở dòng nước xiết của Cửu Huyền Loan ở Đàm Châu thôi phải không?”
“Đúng vậy, loại cá này thường sống ở những dòng xoáy hung dữ trong hồ, người bắt cá phải có tài bơi lội cực giỏi, còn phải gan dạ cẩn thận, cộng thêm chút may mắn mới có thể bắt được. Lần này bắt được hơn chục con, chắc chắn đã tốn rất nhiều công sức…” Dương Hàn cũng thở dài: “Cửu Huyền Loan sóng ngầm cuồn cuộn, bây giờ chắc đã đóng băng rồi nhỉ – tiền triều còn có người mùa đông vì bắt cá mà mất mạng… Chẳng biết những con cá Thải Vĩ chúng ta xem, phía sau có vương máu tanh hay không…”
Thôi Dạng chợt nhớ ra một chuyện, khẽ nói: “Phụ thân của Uyển Nhi, chẳng phải đang làm quan ở Đàm Châu sao?”
Thôi Dạng nhìn Tạ Bích, trong mắt có vài phần trêu chọc: “Không hổ là thanh mai trúc mã, dù đã thành hôn rồi vẫn còn nhớ đến tình cảm của ngươi, nhờ người nhà tìm cho ngươi vật quý hiếm như vậy.”
Tạ Bích khựng bước chân: “Cẩn thận lời nói, nàng ấy đã là người nhà họ Trương.”
“Chỉ nói là người nha họ, chứ chưa nói là thê tử của người ta.” Thôi Dạng cười hì hì nhìn Tạ Bích, cười khẽ: “Xem ra ngươi vẫn lo nghĩ cho Uyển Nhi nhiều lắm.”
Trước kia Thôi Dạng và mọi người vẫn hay lấy hai người họ ra trêu đùa, bây giờ mỗi người đều đã thành thân, vẫn không bỏ được tật xấu này.
Tạ Bích im lặng một lúc lâu.
Sau khi Tần Uyển thành hôn, hai người chưa từng gặp lại, vậy mà nàng lại âm thầm giúp hắn tìm được cá Thải Vĩ hiếm có trên đời…
Mùa này sông ngòi đóng băng, cực kỳ nguy hiểm, dân chúng cũng quý trọng mạng sống, không biết nhà họ Tần đã tốn bao nhiêu tâm tư mới có được mấy con cá Thải Vĩ làm vui lòng rồng ấy…
Ánh mắt Tạ Bích trầm xuống. Hắn lại nhớ đến lời của Vương công công, và trong đầu chợt hiện lên nụ cười trong trẻo của Giang Vãn Nguyệt.
Thành hôn đã hơn nửa năm.
Có những chuyện tuy là việc riêng trong khuê phòng, nhưng cũng có thể bị người ta dò xét.
Đã thành hôn, hắn không nên để lại hiềm khích, khiến người khác phải bận tâm.
Như vậy, đối với cả hai nhà Tạ – Tần đều tốt.
Ánh nến lung linh, hương mực lan tỏa, sau khi dùng bữa tối, Tạ Bích ngồi sau bàn sách ở Cầm Trúc, tay cầm sách, như thường lệ đọc sách.
Cửa kẽo kẹt mở, một bóng hình mảnh mai đi đến sau chiếc bàn sách gỗ hoa lê của Tạ Bích, chiếc nghiên mực gốm Đại Quan được dịch sang một bên, một đĩa đậu tằm rang được đặt lên bàn, giọng Giang Vãn Nguyệt trong như ánh trăng dịu dàng ngoài cửa sổ: “Phu quân, chàng nghỉ một lát đi.”
Tạ Bích ngẩng mắt lên khỏi trang sách, đôi mày mắt lạnh lùng dịu đi vài phần.
Thê tử của hắn đã đến.
Giang Vãn Nguyệt không đọc nhiều sách, nhưng sau khi vào cửa lại rất ham đọc sách, khổ luyện. Sách của nhà họ Tạ đa phần được cất ở Cầm Trúc, khi hắn đọc sách ở đây vào buổi tối, Giang Vãn Nguyệt cũng thường đến đây chọn sách, ngồi bên cạnh hắn lật xem.
Mỗi lần đến, nàng đều mang theo một đĩa đậu tằm rang.
Đây là món ăn dân dã thôn quê, lần đầu tiên Tạ Bích nhìn thấy không khỏi nhíu mày.
Cả một căn phòng thanh nhã treo đầy thư họa của danh gia, lại bị vấy bẩn bởi sự tầm thường này.
Nhưng món đậu tằm mới rang này lại rất thơm ngọt, hắn cũng ngầm cho phép nàng mang đến một ít mỗi khi tới.
Tạ Bích nghiêng đầu: “Cuốn sách lần trước nàng đọc ở trên cùng của hòm sách.”
Giang Vãn Nguyệt đọc còn nông cạn, đều là chọn những cuốn thơ vần vỡ lòng đơn giản nhất. Nàng nhón chân lên lấy sách, tay áo tuột xuống, để lộ một đoạn cổ tay trắng nõn. Nàng khó khăn lấy được cuốn Thanh Luật Khải Mông.
Sách vương hương mực và hương mai, Giang Vãn Nguyệt ôm sách vào lòng, cảm nhận được Tạ Bích đang nhìn mình, gò má tựa sứ trắng ửng lên một màu hồng phai.
Nét cười nhàn nhạt hiện lên trên mày mắt Tạ Bích.
Hắn ghét nhất là có người không liên quan ở quanh mình lúc đọc sách, nhưng Giang Vãn Nguyệt ở đây, lại không hề khiến người ta khó chịu.
Màn đêm ngoài cửa sổ dần buông xuống, một ngọn nến vàng leo lét chiếu rọi bóng hai người ngồi cạnh nhau, đổ dài lên tấm bình phong. Giang Vãn Nguyệt lén lút ngẩng đầu lên từ sau cuốn sách, nhìn bóng hai người khẽ chập vào nhau đang nhảy múa trên tường, tim bất giác đập nhanh.
Nàng ổn định lại tâm thần, dùng sách kẹp một tờ giấy Tuyên, ngửi mùi hương mai lạnh trong tuyết bên cạnh, lặng lẽ vẽ lại bóng của hai người.
Mày mắt Tạ Bích vốn đã tuấn mỹ như trích tiên, lại được nuông chiều trong gấm vóc lụa là từ nhỏ, ngay cả cái bóng cũng toát lên vẻ cao quý không cho người khác đến gần.
Giang Vãn Nguyệt vẽ lại đường nét của người bên cạnh, trong lòng như có một sợi dây đàn, bị khẽ gảy lên, rỉ ra vài phần chua xót.
Sau bữa ăn Tạ Bích luôn đến đây đọc sách, nàng phải lấy hết can đảm mới dám đến đây đọc cùng.
Những cuốn sách Tạ Bích xem đều là của các bậc đại gia, chữ nào chữ nấy đều khó hiểu.
Thế giới mà hắn chuyên tâm, nàng không thể bước vào, càng đừng nói đến lĩnh hội.
Giang Vãn Nguyệt cúi đầu nhìn cuốn sách trong tay mình, trong lòng lại dấy lên vài phần vui sướng.
Không sao cả.
Nàng cuối cùng cũng đang từng bước, từng bước một đến gần hắn hơn.
Dù phải đi một con đường rất xa cũng không sao, nàng sẽ không lười biếng, họ đã là phu thê, có cả một đời, đủ để nàng đi đến bên cạnh hắn.
Ngoài cửa sổ gió lạnh gào thét, trong phòng nến lửa sáng trưng, mấy lò sưởi bên cạnh bàn sách tỏa ra hơi ấm hòa quyện với hương hoa mai.
Giang Vãn Nguyệt khẽ co ngón tay lại.
Mỗi lần đọc sách xong, đều là nàng biết ý rời đi, Tạ Bích dĩ nhiên chưa từng một lần giữ lại.
Nhưng đêm nay, có lẽ vì gió lạnh ngoài cửa sổ, có lẽ vì ánh nến trong phòng quá ấm áp, Giang Vãn Nguyệt ngập ngừng, muốn ở lại thêm một lát.
Đợi đến khi ánh trăng trong trẻo rải khắp Cầm Trúc, Giang Vãn Nguyệt biết mình không thể ở lại đây thêm nữa. Nàng đứng dậy, mũi chân miết nhẹ lên vạt váy, ngập ngừng nói ra những lời đã đắn đo không biết bao nhiêu lần trong lòng: “Lang quân, tiết trời ngày một lạnh, chàng vẫn nên về Tễ Tuyền Ổ nghỉ ngơi đi ạ. Nơi đó… nơi đó vốn là viện của chàng, thiếp ngủ ở phòng bên cũng được…”
Tạ Bích ngẩng mắt, ánh mắt hòa cùng ánh nến rơi trên gương mặt Giang Vãn Nguyệt: “Đọc xong rồi sao?”
Giang Vãn Nguyệt sững sờ: “…Hôm nay đã đọc xong rồi ạ.”
Tạ Bích đặt cây bút lông vào lòng bàn tay nàng, cười nói: “Đọc xong Thanh Luật rồi, cũng có thể thử ngâm thơ. Đêm nay trăng rất đẹp, hay là thử làm một bài đi?”
Đầu ngón tay hai người chạm vào nhau, tim Giang Vãn Nguyệt run lên.
Dù có ngốc nghếch đến đâu, nàng cũng hiểu rằng lời nói đêm nay của Tạ Bích không phải thật sự muốn xem nàng làm thơ, mà là có ý muốn giữ nàng ở lại.
