Hôm qua Đỗ Linh Tĩnh suýt nữa bị hắn ăn sạch, may mắn trên cánh tay còn thương thế, hắn cuối cùng cũng không dám làm càn, nàng mới thoát được một kiếp.
Nàng vốn định rời ngoại viện, giờ đành trở lại chính viện tĩnh dưỡng, ai ngờ vừa khởi ý rời đi, Sùng Bình đã bước vào bẩm báo:
“Phu nhân chi bằng cứ lưu lại Xa Tụ Các mà dưỡng thương.”
Đỗ Linh Tĩnh thoáng sửng sốt: “Về chính viện dưỡng thương có gì không được sao?”
Sùng Bình chỉ cười, cung kính đáp: “Đây là hầu gia phân phó.”
Nàng liền hiểu ra.
Nhớ lại hôm qua, lúc hắn giận dữ muốn phạt đánh hai thầy trò quản sự, nàng có nói lần sau sẽ trực tiếp bảo bẩm báo. Hắn lại nói “chưa đúng”, song cũng chẳng chỉ nàng thế nào mới là “đúng”.
Giờ đây nàng đã minh bạch, thì chỉ cần thẳng thắn bước vào là được, cần gì thông bẩm.
Chỉ là hắn hiển nhiên vẫn vì chuyện ấy mà giận dỗi, không chịu nói thẳng, một mực muốn nàng tự mình ngộ ra.
…
Tính khí hắn như tảng đá, đây đâu phải lần đầu nàng thấy. Đỗ Linh Tĩnh chỉ đành nhẫn nhịn, vòng vèo quay lại.
Ngày thường, khi không xuất môn, hắn đa phần đều ở Xa Tụ Các quản lý công vụ. Nàng lưu lại nơi này, hắn thỉnh thoảng từ thư phòng trở về, sẽ liếc nhìn nàng, trò chuyện đôi câu, ăn vài miếng điểm tâm. Gặp lúc tâm tình khoan khoái, hắn còn bảo:
“Ta thấy phủ đệ rộng lớn chẳng có chỗ nào tốt, chẳng bằng Tuyền Tuyền về sau cứ dọn sang Xa Tụ Các mà ở.”
Song Xa Tụ Các thường có phụ tá cùng khách khứa tới lui, mà nàng lại là hầu phu nhân, ở ngoại viện cùng với những người này, cúi đầu chẳng thấy, ngẩng đầu liền gặp, thật không tiện.
Hắn cũng chỉ nói qua, rồi lại bảo: “Nàng không việc gì thì cứ tới đây thêm vài lần.”
Trời tháng giêng, trong gió đã phảng phất hơi thở đầu xuân. Đỗ Linh Tĩnh chỉ khẽ gật đầu, ánh mắt hắn liền càng thêm nhu hòa.
Khi ấy, ngoại thính có quản sự tới bẩm: có mấy vị phất đảng cầu kiến.
Từ ngày hắn trong rừng thản nhiên thổ lộ, nói rõ sẽ không cưỡng cầu, tùy họ ở lại hay rời đi, ngược lại lại có càng nhiều người tự nguyện đến cửa, tỏ ý muốn quy phục Tuệ Vương và Vĩnh Định Hầu, ở trong triều dốc sức cho hắn.
Mấy hôm trước, Đỗ Linh Tĩnh từng thấy hắn tại Xa Tụ Các tiếp đãi không ít phất đảng. Hôm nay lại có mấy người tới, nàng ngẩng đầu nhìn hắn. Hắn chỉ hừ lạnh:
“Không gặp.”
Lại giở trò.
Đỗ Linh Tĩnh hỏi: “Hầu gia sao vậy? Chẳng lẽ là sợ bị người ta dị nghị?”
Hắn liếc nàng: “Không phải sao? Người chủ động đến cửa, trước nay vốn nhiều. Nếu ta lập tức tiếp kiến, lại e kẻ khác nghi ngờ ta lui một bước để tiến hai bước, cũng là thận trọng cầu mưu.”
Hắn nói, dáng vẻ quả thật không muốn gặp ai, thong dong nâng chén trà uống.
Đỗ Linh Tĩnh nhớ tới đã cùng hắn giải thích tạ lỗi, mà hắn vẫn cứ ngấm ngầm giận dỗi, chẳng chịu buông tha.
Hắn bảo mình ngày ngày bị nàng khinh bạc, song rốt cuộc là ai khinh bạc ai?
Đỗ Linh Tĩnh vốn chẳng phải hạng mềm yếu như đất sét, liền nói: “Vậy hầu gia đừng gặp thật. Tốt nhất cứ làm bộ không thấy.”
Phất đảng tự đến cửa, hắn lại còn để quản sự phải vội vàng bẩm báo, nào có chuyện thực sự không muốn gặp.
Lời vừa dứt, nàng liền nghe hắn bật cười.
Nàng cũng mím môi cười khẽ, nào ngờ ngay tức thì, hắn đã kéo lấy cánh tay chưa lành của nàng, ôm chặt nàng vào ngực.
Nàng kinh hãi thở gấp, nam nhân cúi đầu, môi khẽ chạm khóe môi nàng, thì thầm:
“Nàng không thể cùng ta nói đôi câu mềm mại sao?”
Như thể nàng từng đối với Tưởng…
Không.
Cũng chỉ là muốn nàng dùng ngữ khí nhu hòa như dòng x**n th** mà nói chuyện với hắn.
Hắn nhẹ cắn cánh môi nàng, Đỗ Linh Tĩnh hơi đau.
Nhưng thế nào mới gọi là lời mềm? Nàng không biết.
Ngoài kia còn có người chờ, hắn vẫn ở đây quấn quýt. Nàng làm sao cất nổi giọng dịu dàng?
“Duy Thạch…”
Nàng run run lông mi, trong lòng hắn khẽ gọi tên tự.
Song nam nhân chưa thỏa, còn muốn nàng nói thêm.
Nàng không biết đáp thế nào, chỉ đành vòng cánh tay lành lặn qua cổ hắn.
Đây là lần đầu nàng chủ động như thế, sắc mặt thoáng đỏ ửng, mồ hôi rịn khắp trán, nhất là khi hắn dán mắt nhìn chằm chằm.
Nàng quả thật chẳng rõ, hắn muốn nghe lời mềm ngọt gì. Chỉ có thể vòng tay ôm lấy cổ hắn, thì thầm bé nhỏ như muỗi kêu:
“Ngài có thể đừng cùng ta so đo nữa không?”
Trong mắt hắn, mực sâu như vực, xoáy lốc muốn nuốt trọn nàng.
Hắn cúi đầu, khàn giọng thì thầm bên tai nàng:
“Có thể. Nhưng tối nay để ma ma tới điểm hương, được không?”
Đỗ Linh Tĩnh kinh hãi, song dưới ánh mắt kia, chỉ đành chậm rãi gật đầu.
…
Không biết có phải có người cố ý phân phó, mà đêm ấy ma ma quả nhiên dùng hương mạnh hơn chút.
Trong phòng Xa Tụ Các, chăn gối được lót thêm dày.
Đỗ Linh Tĩnh nằm ở giữa, toàn thân nóng như vừa ngâm mình trong nước.
Hắn ghì nàng dưới khung giường khắc hoa.
Hắn tuy còn nương tay, không động chạm đến cánh tay bị thương của nàng, nhưng những chỗ khác thì chẳng để nàng còn cơ hội khống chế.
Dưới làn hương nồng nàn, trong hơi thở nóng bỏng, hắn lặp đi lặp lại một ccahs chiếm đoạt, chẳng khác nào trận mưa dầm nặng hạt.
Đến lúc cuồng nhiệt, hắn gọi khẽ: “Tuyền Tuyền, nói với ta mấy câu dễ nghe đi.”
Lại muốn lời mềm mại sao? Hắn rốt cuộc mong nàng nói gì?
Đáng tiếc toàn thân nàng ướt đẫm mồ hôi, dưới thế áp chế mãnh liệt ấy, nàng nào còn có thể tỉnh táo suy nghĩ.
Nàng không đáp nổi, hắn liền chau mày không vui, kéo nàng ngồi thẳng trên người mình, ép nàng đối diện.
“Ít nhất, hãy như ban chiều.”
Ban chiều? Ôm lấy cổ hắn sao?
Đỗ Linh Tĩnh chợt hiểu, vội vòng tay ôm lấy cổ hắn, ngay cả cánh tay bị thương cũng khẽ đặt lên vai hắn.
Rồi chỉ cần nàng khẽ khàng đáp một cái, vòng tay ôm lên cổ hắn như thế, mồ hôi trên trán nam nhân đã “tách tách” rơi xuống.
Ngay sau đó là mưa nguồn gió cuốn, hắn muốn đoạt lấy nàng trọn vẹn.
…
Quá nửa đêm mới miễn cưỡng đi nghỉ.
Không biết ngủ được bao lâu, nàng mơ hồ cảm thấy có người trở mình ngồi dậy, thay nàng chỉnh lại góc chăn. Nàng mơ mơ màng màng mở mắt, thấy hắn xuống giường, khoác áo, đi đến bên giá kiếm.
Đỗ Linh Tĩnh mệt mỏi quá đỗi, lại khép mắt, ngủ tiếp.
Trước giá kiếm, Lục Thận Như lặng lẽ đứng.
Chân trời đã vương vệt bạc, qua song cửa sổ rọi vào chút sớm mai mơ hồ. Nam nhân nhìn thanh bạc tuyết kiếm hồi lâu, hạ mi mắt, giọng khàn khàn mà cười:
“Ngươi, tên tiểu tử thối, tám năm rồi, hôm nay mới chịu tới thăm huynh trưởng ngươi trong mộng…”
Trong mộng, hắn nói với người đó rất nhiều điều, dài dòng dằng dặc; tỉnh dậy liền quên cả nội dung, chỉ còn nhớ đối phương mỉm cười hỏi:
“Ca, ta đã nói huynh nhất định cưới được nàng vào nhà ta, có đúng không?”
Trước giá kiếm, nam nhân ngoảnh đầu nhìn vào trong màn trướng chồng lớp, nơi thê tử đang say ngủ, lại nở nụ cười. Hắn chậm rãi nhắm mắt, đáp lại câu hỏi năm xưa của Hằng Như:
“Phải, hết thảy đều đã có.”
Chẳng còn mấy ngày nữa đã đến Thượng Nguyên hội đăng.
Hoàng thượng cùng Hoàng hậu thân thể đều không khang kiện; tuy ngoài mặt không nói, song Đỗ Linh Tĩnh nghe Lục Thận Như bảo, tinh thần bệ hạ suy lắm, thái y ra vào liên miên, nên năm nay Thượng Nguyên khó mở cung yến.
Tin ấy khiến sắc mặt hầu gia càng trầm. Tuy không bày yến như lệ, nhưng vẫn theo năm trước, triệu mời thần tử thân cận nhập cung thưởng đăng.
Sáng sớm hắn thay triều y vào cung, còn dặn nàng: đêm nay trong kinh đèn lồng sáng suốt canh, “Nghe nói Nhị nương Hỗ gia đã hồi kinh, ta không thể bồi nàng, vậy hãy mời nàng ta đi xem đèn cùng nương tử nhé.”
Hắn lại cấp cho nàng một đội nhân thủ, phòng hội đăng hỗn tạp dễ sinh náo động.
Đỗ Linh Tĩnh vốn cũng định đến thăm Hỗ Đình Quân. Cơm xong là đầu giờ chiều, bèn tới nơi Hỗ huynh muội đang tạm trú.
Hỗ Đình Lan ghé qua chào một tiếng lại trở vào thư phòng. Vụ Thiệu Bá Cử ảnh hưởng đến y quá nặng, có lẽ phải đóng cửa với sách bút một thời gian mới dần thong thả.
Đỗ Linh Tĩnh bất giác nhớ năm ấy Tam Lang khuất, nàng cả mùa đông không rời Miên Lâu. Từng tưởng phụ thân và Tam Lang đều đi rồi, cõi đời chẳng còn gì đáng lưu luyến, thà theo mưa tuyết mà buông tay. Song Tam Lang lại bắt nàng thay chàng thu thập trăm bộ Tống bản.
Năm ấy Đình Quân từ Thương Châu đuổi đến Miên Lâu, một tấc cũng không rời, khuyên nàng: “Nếu ngươi cũng đi, tâm nguyện của Giải Nguyên lấy ai hoàn thành? Ngươi phải vì hắn góp đủ trăm Tống bản chứ…”
Chuyện cũ theo gió lùa qua phố phường đầy hoa đăng, bị ánh đèn sóng nước che khuất, khó tìm dấu vết.
Nàng không khuyên thêm Hỗ Đình Lan, chỉ đem chiếc hoa đăng mới mua treo lặng lẽ trước cửa sổ thư phòng y.
Vừa treo xong, đã có giọng non nớt vang lên: “Đèn đẹp quá!”
Nàng ngoảnh lại, thấy một tiểu cô nương ba bốn tuổi từ ngạch cửa chạy ra, mặt tròn mắt to, bảy tám phần giống Đình Quân, nghiêng đầu ngắm đèn rồi ngước nhìn Đỗ Linh Tĩnh.
Bé bỗng mỉm cười, gọi một tiếng: “Dì ơi!”
Đỗ Linh Tĩnh giật mình. Nàng chưa gặp đứa nhỏ này, mà bé lại nhận ra nàng.
Nàng phì cười: “Tiểu La?”
Tiểu cô nương mím môi cười.
Đình Quân từ phòng bước ra, thấy hai người đã nhận nhau, cười đến không dứt, bảo Thu Lâm: “Thế thì hay rồi, khỏi cần ta giới thiệu.”
Thu Lâm vừa nhìn đã mến ngay tiểu khuê nữ của Nhị nương Hỗ gia, dúi cho bé chiếc đèn hình hạt đậu mới mua. Bé khanh khách chạy quanh, Thu Lâm đưa đèn về phía Đỗ Linh Tĩnh, Tiểu La liền nhào vào váy nàng.
Đỗ Linh Tĩnh vừa ngồi nói với Đình Quân đôi câu, bé đã sà tới, ngước mắt nhìn nàng, chẳng chút xa lạ, đòi ngay: “Dì bế một cái.”
Tim nàng mềm nhũn. Nhưng tay đang bị thương, Thu Lâm đành giúp bế bé đặt lên đùi nàng.
Trẻ con trông xa thì đáng yêu, ôm vào lòng lại khác.
Bé vừa chơi đèn vừa bò lên bò xuống, vặn vẹo không yên. Tay nàng bất tiện, lại vốn chẳng có kinh nghiệm chăm trẻ, không biết bế sao cho phải, dỗ sao cho yên, chỉ sợ bé tuột khỏi tay; đến nỗi chóp mũi cũng rịn mồ hôi.
Đình Quân cười ha hả: “Tĩnh Nương thật đúng là văn nhân nơi thư các, có mỗi đứa nhỏ mà cũng lúng túng. Mai này nếu ngươi và hầu gia có con, còn chẳng biết làm sao?”
Lời ấy khiến Đỗ Linh Tĩnh khựng lại, trong đầu thoáng vụt qua cảnh đêm qua dưới màn trướng. Tai nàng chợt nóng lên.
Nàng không đáp, chỉ liếc cửa sổ sau lưng Đình Quân: có treo một đôi búp bê vải con – long phượng béo tròn, cười nom đến đáng yêu.
Nàng nhớ các cô của Đình Quân đều khéo tay, xưa ở kinh vẫn hay may xiêm y cho các nàng.
Bèn hỏi: “Đó là cô cô làm cho Tiểu La sao?”
Đình Quân lại cười, ánh mắt lấp lánh, liếc nàng: “Nếu Tĩnh Nương thích thì mang về đi, nhớ đặt ở bậu cửa sổ đó.”
Nàng tính nếu cho thật thì sẽ kêu Thu Lâm lấy xuống; nhưng thấy vẻ cười cợt của Đình Quân hơi quái quái, không khỏi hỏi:
“Không nói rõ, ta không lấy đâu.”
“Vậy nói rõ rồi, ngươi sẽ nhận nhé.” Đình Quân cười: “Đây là ta trước kia lên chùa cầu được – không phải tay nghề của cô cô, mà là búp bê cầu tự đã khai quang.”
Đỗ Linh Tĩnh thoáng ngạc nhiên – thì ra là búp bê cầu tự.
Nàng nói không cần, Đình Quân lại giễu: “Sao lại không? Ta coi hầu gia áng chừng muốn rồi đấy.”
Nàng ấy liền bảo Thu Lâm cất: “Mang về cho phu nhân nhà ngươi, đặt dưới cửa sổ ấy.”
Đẩy đi không được, Thu Lâm thật sự cất vào.
Đỗ Linh Tĩnh cúi xuống nói với bé trong lòng: “Mẹ của ngươi đúng là khéo trêu người.”
Tiểu La cười hì hì, nghe ngoài phố có tiếng reo hò, bèn nhảy khỏi lòng nàng, đòi ra phố xem đèn.
Trời dần ngả chiều, vừa khéo đến giờ thưởng đăng.
Đỗ Linh Tĩnh cũng không muốn bàn luận thêm, bèn dắt theo bé rồi gọi Đình Quân cùng ra đại lộ.
Chợ đèn phía bắc Thành Khánh Phường là nơi náo nhiệt nhất đêm nay; vừa ra cửa, cả bọn liền theo dòng người mà tới.
Tiểu La muốn được mẹ mua đèn, tung tăng đi trước; Đỗ Linh Tĩnh tụt lại hai bước. Thu Lâm ghé sát, thì thầm:
“Phu nhân, thứ thuốc viên lần trước lén mua kia, còn không nhiều. Có cần mua thêm không?”
Một bình nhỏ đầy ắp ấy mà đã gần dùng hết – Đỗ Linh Tĩnh không ngờ lại nhanh đến vậy.
Nàng khựng lại, mặt thoáng nóng: “Còn… còn lại bao nhiêu?”
Thu Lâm tính theo tần suất của hầu gia: “Cũng chỉ còn đủ dùng hơn một tháng thôi ạ.”
Nàng thấy phu nhân nhà mình mặt càng lúc càng đỏ, đám đông lại đẩy các nàng xuôi theo dòng người, phu nhân nhất thời không đáp.
Hai bên đường, đèn lồng dần dần thắp sáng, trời tây đã khuất mà phố phường lại tựa ban ngày.
Thu Lâm liệu chừng cô nương nhà mình tính tình chậm chạp, e rằng còn phải dùng thứ dược kia thêm một thời gian dài nữa.
Không ngờ lúc ấy, bước chân cô nương phía trước chợt khựng, nàng nghe phu nhân nhẹ giọng, thong thả nói:
“Dùng hết vò này, đợi xuân ấm lên thì… khỏi mua nữa.”
Lời vừa dứt, nàng đã rảo bước đuổi theo mẹ con Đình Quân phía trước; riêng Thu Lâm lại đứng sững phía sau.
Tim Thu Lâm đập thình thịch.
Cô nương… không, phu nhân đây là muốn cùng hầu gia sinh một tiểu tiểu thư, hoặc một tiểu thiếu gia ư?!
Thu Lâm mừng khôn xiết.
Chợt nhớ mùa đông năm Tam gia khuất núi, cô nương tiêu điều nặng nề, nàng ấy đứng bên chỉ sợ cô nương một lúc nghĩ quẩn… Mà nay—
Thu Lâm thật muốn cười to ba tiếng báo hỉ, nhưng phố phường chật ních người xem đèn, nàng ấy chỉ đành nén vui trong dạ, bước nhanh theo sau.
Từ đại lộ Triều Dương Môn vào chợ đèn đến phố Sùng Văn Môn, đèn Thượng Nguyên như biển hoa trải khắp. Người trong ngoài thành tuôn như nước, chen chúc đến nỗi đi lại cũng chậm hơn ba phần.
Giữa dòng người ấy lại có một đoàn vội vã xô qua, chẳng ngừng chân.
Hỗ Đình Quân vội bế nữ nhi lên, sợ bé bị chen lấn. Thị vệ hầu phủ cũng tiến lên che chở. Đỗ Linh Tĩnh lại nghe một thị vệ thấp giọng:
“Người Vinh Xương Bá phủ, đang vội làm cái chi vậy?”
Vinh Xương Bá Dương thị? Đỗ Linh Tĩnh đưa mắt nhìn đoàn người kia, ai nấy mặt mày như mang tin mừng.
Lúc then chốt này, Dương gia còn có chuyện đại hỉ?
Nàng ngờ vực; người đi đường cũng ngờ vực. Trên phố không biết ai buông một câu:
“Nghe nói vừa trong cung truyền ra, bệ hạ lúc xem đèn bỗng nhắc Vinh Xương Bá trấn thủ biên cương nhiều năm, rồi hạ lệnh: vụ kiện của Dương gia do Đại Lý Tự được xử nhẹ, hai vị tiểu gia Dương thị chỉ lưu đày, không chém!”
Lời chưa dứt, bốn phía đã ồ lên.
Có kẻ nói: “Chẳng trách Dương gia đại hỉ, rốt cuộc giữ được hai mạng!”
Cũng có người bảo: “Dương gia lưu được mạng thì mừng đó, chỉ tiếc những mạng người bị họ hại khi trước, chẳng thể nào về nữa.”
Nói thế nào cũng thế, Đỗ Linh Tĩnh chỉ nghe người khác than:
“Thiệu Thám Hoa không còn, Thiệu gia cũng bị liên lụy; Đậu các lão không cứu nổi Thiệu gia, vẫn là Lục hầu lợi hại, chẳng biết dùng cách chi mà không chỉ giữ được tước vị Vinh Xương Bá, còn vớt cả hai cái mạng của tiểu gia họ nữa.”
Hỗ Đình Quân ngoảnh lại liếc nàng: “Hầu gia rốt cuộc vẫn là mềm lòng với Dương gia ư?”
Đỗ Linh Tĩnh thực tình không rõ.
Từ dạo ấy, hắn chưa từng nhắc lại việc Dương gia; xem ra đúng như lời hắn nói: kiện tụng của Dương thị, tốt xấu đều chẳng can hệ đến hắn.
Nàng lắc đầu: “E là chỉ một chút từ tâm của bệ hạ mà thôi.”
Đình Quân tin nàng, nhưng người bên đường nghe được liền xôn xao.
Ai nấy đều nói khúc quanh này của Dương gia “ắt là do hầu gia đứng giữa điều hòa. Dẫu sao cũng là thông gia, lại thêm Vinh Xương Bá xưa là đại tướng tiền trận của Vĩnh Định quân, hầu gia sao nỡ bỏ?”
“Giờ thì hay — hầu gia vừa thu dùng phất đảng, lại bảo toàn Vinh Xương Bá phủ; trái lại bên Đậu các lão, Thám Hoa chẳng còn, Thiệu gia im hơi lặng tiếng. Ván này, Đậu các lão có tính là thua Lục hầu không?”
Tiếng tán dương Lục hầu khắp nơi.
Đỗ Linh Tĩnh nghe qua một bên tai, bỗng thấy buồn cười.
Việc này hẳn chẳng liên quan hắn; kết cục nghiêng về phía hắn, nửa bởi thánh ý, nửa do vận trời. Người ngoài không hay, lại tưởng tất thảy đều nằm trong tính toán của hắn.
Nếu quả thực mọi bước đều do hắn trù liệu mà nửa phần chẳng lộ, vậy hắn ắt lợi hại đến mức khiến người ta kinh sợ.
Nàng khẽ cười, lắc đầu, không để tâm thêm, chỉ hỏi chuyện hôn phu của Đình Quân vào kinh kiếm chức: “Mong ngươi và Tiểu La cùng ở lại được trong kinh.”
Đêm ấy, vị toàn thắng kinh thành hầu gia ấy, đến quá nửa đêm mới từ cung trở về, trên người đầy mùi rượu, nghỉ ở ngoại viện.
Đỗ Linh Tĩnh vốn muốn hỏi qua chuyện Dương gia, nhưng ngẫm nếu mở miệng, e hắn lại nghĩ nàng sinh lòng nghi ngờ.
Việc ấy nay đã không liên can nàng, tất nhiên nàng cũng chẳng hỏi nữa.
Tháng giêng thoăn thoắt trôi qua.
...
Hồng La Tự, ngoài thành.
Duyện Vương có phần luyến tiếc khi rời đi.
Ông ta mỗi ngày đều được cùng Tưởng gia Lục Lang bàn đôi câu văn chương. Tuy Lục Lang sắp dự khảo thí mùa xuân vào hai tháng tới, thể mà vẫn chịu bớt thời giờ, đêm đêm sang canh còn tiểu luận vài chén, gặp chỗ hứng chí liền quên mệt. Duyện Vương càng tán thưởng văn chương người này, nói xuân thí ắt bảng vàng đề danh.
Hôm ấy Lục Lang dâng một thiên văn; Duyện Vương đọc từ đầu đến cuối, hồi lâu không nói nên lời.
“Thiên này hơi khác thường nhật của ngươi, song luận diệu dụng không hề kém. Cấu tứ tinh xảo, như thể trời sinh.”
Lục Lang ghé lại xem, rồi “á” một tiếng: “Điện hạ thứ tội, Lục Lang cầm nhầm, thiên này chẳng phải văn chương của ta.”
Duyện Vương kinh ngạc. Bút tích trên kia thoạt trông y như Tưởng Phong Xuyên, nhưng nhìn kỹ lại thấy nét chữ trầm ổn hơn, khí lực cũng khác.
“Văn của ai vậy?”
Tưởng Phong Xuyên vội đáp: “Không dám giấu điện hạ, ấy là cựu văn của gia huynh. Tiểu nhân vẫn thường tham khảo văn tự của huynh ấy, nên bút tích tương cận, khiến điện hạ không nhận ra.”
Duyện Vương chợt tỉnh: “Thì ra là văn chương của Tưởng Giải Nguyên.”
Đây là Tưởng Trúc Tu thuở trước soạn sẵn một thiên thời văn cho khoa xuân.
Vương gia thở dài: “Quả là Giải Nguyên — văn tài như thế. Chỉ tiếc bạc mệnh, tuổi xuân quá ngắn. Không thể vào kinh nối chí cử nghiệp, ấy là tổn thất của triều đình, cũng là nỗi tiếc hận của bệ hạ.”
Điện hạ cảm khái không thôi; Tưởng Phong Xuyên lặng đi một thoáng rồi nói:
“Huynh trưởng sinh thời còn hai điều tâm nguyện. Một là mong ta thay huynh ‘thiềm cung chiết quế’* (là một điển cố trong văn chương Trung Hoa, có ý nghĩa là thi đỗ cao trong khoa cử), bảng vàng đề danh…”
“Nguyện ấy,” vương gia gật đầu, “bổn vương coi hẳn là lần này tất thành.”
Duyện Vương lại hỏi: “Còn điều kia?”
Tưởng Lục Lang thoáng ngập ngừng: “Điều kia là việc riêng của gia huynh…”
Vương gia nghe hắn ta thở dài, bèn lắng nghe.
“Huynh trưởng từng có vị hôn thê đã đính ước, hai bên là thanh mai trúc mã, lưỡng tâm tương hứa. Chẳng ngờ huynh ấy đoản mệnh, chưa kịp cưới nàng vào cửa. Huynh ấy chỉ mong sau mình, nàng có thể tái giá, sống đời thuận ý.”
Duyện Vương nghe liền biết nói ai —
Hầu phu nhân nhà Lục hầu.
Duyện Vương kiêm chức Tông Nhân Lệnh, mỗi năm chuyện mấu chốt nhất kỳ thực chính là thánh chỉ tứ hôn vào yến tiệc Trung Thu.
Năm ngoái thánh chỉ ban hôn, vừa khéo là Lục hầu với vị phu nhân này.
Duyện Vương nhất thời im lặng.
Chỉ nghe Tưởng Lục Lang nói: “Mấy hôm trước, tam ca không biết bằng cách nào vào mộng ta.”
“Huynh hỏi ta vì sao tẩu tử, không, Lục hầu phu nhân, bỗng từ Thanh Châu vào kinh mà gả người. Ta đáp trong mộng: là thánh ý ban hôn. Tam ca lại hỏi: thánh ý cớ sao như vậy.”
Hắn ta cười khổ với vương gia: “Vấn đề này thật là làm khó ta. Vì sao có thánh ý đó, Lục Lang nào biết? Chỉ là lúc ấy không đáp được với tam ca, lòng cứ thấy khắc khoải không yên.”
Hắn ta tự giễu: “Chẳng lẽ đợi đến kỳ thi đình, lại mang chuyện ấy hỏi bệ hạ? Bệ hạ thấy ta vô phép, e đuổi khỏi kinh cho xem.”
Duyện Vương bật cười: “Lục Lang chẳng cần hỏi bệ hạ, bổn vương nói cho ngươi biết vậy.”
“Điện hạ e rằng… bất tiện?”
Vương gia mỉm cười. Trung thu trước sau cố nhiên một chữ không dám tiết lộ; nhưng nay đã qua nửa năm.
“Việc tứ hôn của Lục hầu cùng phu nhân, kỳ thực chẳng phải thuần thánh ý, mà là…” ông tai mỉm cười, “do chính Vĩnh Định hầu vào điện cầu mà được.”
Tưởng Phong Xuyên trong lòng chấn động, mặt vẫn bất động.
“Khi nào cầu? Vào lúc Trung thu ư?”
Hắn ta hỏi. Vương gia chỉ cười, khẽ xua tay, rồi lắc đầu.
...
Ngoại thành kinh sư.
Nguyễn Cung ngang qua tiệm sách của Chương tiên sinh, ghé vào thay phu nhân vấn an.
Chương tiên sinh tự tay rót trà. Nguyễn Cung nói: “Tiên sinh chớ đa lễ. Vốn phu nhân định đích thân đến bái kiến, chỉ vì đang dưỡng thương, Thượng Nguyên hôm ấy mới ra ngoài đôi chút để thưởng đèn. Đợi phu nhân khá hơn, ắt sẽ tự đến thăm.”
Chương tiên sinh bảo không hề chi: “Tĩnh Nương nên dưỡng thương cho lành. Có điều chuyện nàng nhờ để mắt tám bộ Tống bản, ta quả có chút manh mối.”
Ông nói, tám bộ Tống thư đột ngột xuất hiện, dẫn Đỗ Linh Tĩnh từ Thanh Châu vào kinh, quả quá trùng hợp.
“Ta hỏi ngược xuôi, phát hiện trong đó có bốn quyển… lại có chút liên hệ với hầu phủ.”
Nguyễn Cung giật mình: “Tiên sinh nói liên hệ với ai cơ?”
Chương tiên sinh lặp lại: “Chính là hầu gia — Lục hầu của Vĩnh Định hầu phủ.”
Nguyễn Cung ruột gan nhảy thót, nghe Chương tiên sinh nói tiếp:
“Ngươi về thưa với Tĩnh Nương trước một tiếng. Còn vài quyển nữa ta cũng đã nhờ người dò hỏi; chờ thêm mấy ngày tin tức tới đủ, sẽ rõ đầu đuôi.”
Nguyễn Cung bỗng toát mồ hôi lạnh mà chẳng hiểu vì sao. Vừa nghe trọn lời Chương tiên sinh, y liền một mạch quay về hầu phủ, tìm ngay phu nhân để bẩm báo.
Duy Hứa Hầu Phu Nhân (Chỉ Nguyện Nàng Là Phu Nhân Hầu Phủ)
Chương 53: Cầu lấy
Bạn có thể dùng phím mũi tên
hoặc WASD để
lùi/sang chương
