Duy Hứa Hầu Phu Nhân (Chỉ Nguyện Nàng Là Phu Nhân Hầu Phủ)

Chương 6: Các hạ



Lúc Đỗ Trí Kỳ trở về, trời đã sẩm tối, trên mái ngói cao thấp của đế thành ánh đèn vừa mới thắp, gió đêm thổi qua, bóng tối lan rộng bốn phía.

Lão canh cổng Văn bá mãi chẳng ra mở cửa, ông ta cũng không lớn tiếng gọi, chỉ để gã sai vặt mở đường, lặng lẽ hồi phủ rồi dừng lại ở ngoại viện.

Khi nãy, ông ta từ cửa Tông Nhân Phủ bước ra, liền thấy Nguyễn Cung cưỡi khoái mã phi nhanh tới, nhưng lúc đó ông ta đã kịp sớm một bước, đem danh thiếp dâng vào rồi.

Một nửa thì lòng còn thấp thỏm vì hành động vội vàng, một nửa lại sợ trước cổng Tông Nhân Phủ bị chất nữ sai quản sự tới cản trở, làm mất thể diện, nên ông ta vội vàng lên xe ngựa nhà họ Cố.

Ông ta đi theo xe ngựa Cố gia rời đi, còn Nguyễn Cung tự nhiên không thể vượt lên trước.

Việc đã đến nước này, danh thiếp chẳng thể rút lại. Kế đó, Thiệu gia sẽ nhờ Hoàng thượng ban tứ hôn, hôn sự giữa hai nhà coi như đã định.

Dẫu sự tình đã như vậy, nhưng nhớ lại những lời chất nữ chất vấn ban nãy, Đỗ Trí Kỳ vẫn còn e sợ, ngại nàng lại đến tìm mình khóc lóc ầm ĩ.

Suy cho cùng, nàng là huyết mạch duy nhất mà đại ca để lại. Nếu thúc cháu tranh chấp ồn ào, chẳng phải là để thiên hạ chê cười?

Ông không khỏi thấp giọng hỏi kẻ hầu: “Đại cô nương đang làm gì?”

Gã hầu đáp: “Đại cô nương ở thiên viện Tây lộ.”

“Nàng đang làm gì?”

Kẻ hầu ngập ngừng: “Cô nương chẳng làm gì cả. Tây viện vẫn an tĩnh, giống hệt mấy ngày trước.”

Đỗ Trí Kỳ sững người.

Nàng chẳng phải đã biết cả rồi sao? Vậy thì… đây là nàng đã thấy sự tình không thể vãn hồi, nên thuận theo mà chấp nhận?

*

Trước giường Nhị phu nhân, Đỗ Nhuận Thanh ôm chén thuốc trong tay đã lâu, thần trí hoảng hốt, chẳng hay đã bưng được bao lâu.

Nha hoàn Nhược Tuyết khẽ gọi một tiếng, khiến nàng ta giật mình hoàn hồn:

“Cô nương, Nhị lão gia đã trở về.”

“Cha đã về? Cái… thiếp đó, đã dâng lên rồi sao?”

Nhược Tuyết vẫn chưa rõ, vội đáp: “Nô tỳ lập tức đi hỏi.”

Lời còn chưa dứt, màn trướng đã vén, có người bước vào, mở miệng nói ngay: “Không cần hỏi nữa, thiếp đã dâng, việc cũng đã thành.”

Đỗ Nhuận Thanh cùng Nhược Tuyết đồng loạt ngẩng đầu nhìn.

“A, là quản sự ma ma tới?” Tuyết Nhi vội bước lên đỡ.

Đỗ Nhuận Thanh thì mừng rỡ: “Ma ma, sao người lại tới?”

Người đến chính là quản sự ma ma bên cạnh Vạn lão phu nhân, tâm phúc thân tín nhất của bà ta.

Đỗ Nhuận Thanh sai Nhược Tuyết pha trà, quản sự ma ma chỉ liếc Nhị phu nhân một cái, thấy bà đã uống thuốc ngủ yên ổn, mới ngồi xuống bên ngọn đèn nhỏ nơi cửa sổ.

“Lão phu nhân sai lão nô tới. Lão phu nhân nói cô nương tuổi hãy còn nhỏ, chưa từng trải qua việc này, lần này gặp khúc quanh tất nhiên sẽ thương tâm, nên lão nô tới để khuyên giải, an ủi lòng cô nương.”

Giọng bà vang khẽ bên ngọn đèn dầu, ánh lửa run rẩy. Đỗ Nhuận Thanh nghe xong, nước mắt liền tuôn rơi.

Quản sự ma ma vội kêu lên một tiếng, nhanh tay đưa khăn cho nàng ta lau, nhưng nước mắt càng rơi nhiều hơn.

Nguyên là, nàng ta chỉ muốn mượn cớ mẫu thân đột nhiên phát bệnh, thỉnh bà ngoại thuận lý thành chương mà đến Đỗ phủ.

Mối hôn sự giữa Thiệu và Đỗ vốn do bà ngoại ngấm ngầm làm mai, nhưng phụ thân bị đại tỷ thuyết phục, lại trở mặt không muốn nhắc tới. Nàng ta thấy cơ hội sắp vụt mất, bà ngoại ắt cũng chẳng chịu buông.

Bà ngoại bèn dặn nàng ta cho mẫu thân ngừng thuốc vài ngày, rồi đuổi nha hoàn ra ngoài. Vốn chỉ muốn khiến mẫu thân lâm vào tâm trí thất thường mà thôi, nào ngờ mẫu thân kinh hoảng, ngã từ thềm đá xuống, trán đập vào chậu hoa, máu chảy be bét…

Nhớ lại cảnh mẫu thân mặt mày đẫm máu, tim nàng ta vẫn run rẩy. Nước mắt lại trào ra, nàng ta cúi đầu nức nở không thôi.

Quản sự ma ma biết nàng ta quả đã nghe lời Vạn lão phu nhân, liền dịu giọng an ủi:

“Hôm nay vốn là ngoài ý muốn, chỉ tại đám nô tỳ la hét làm phu nhân hoảng sợ.”

Đỗ Nhuận Thanh vẫn che mặt khóc:

“Nếu không phải ta dừng thuốc của nương, lại còn đuổi người hầu, sao nương có thể rơi vào cảnh hiểm nghèo này?”

Nàng ta tự trách không ngớt, quản sự ma ma lại khuyên:

“Ngày thường vẫn an ổn, cô nương sao có thể cố ý làm hại? Suy cho cùng, chẳng phải vì đại tỷ của cô nương sinh sự, trước thì thuyết phục Nhị lão gia, khiến việc trong ngoài rối loạn, sau lại giữ chặt khiến cả nhà không nhúc nhích, nên lão phu nhân cùng cô nương mới đành dùng hạ sách này đó thôi.”

Nghe vậy, tiếng khóc của Đỗ Nhuận Thanh cũng chậm lại. Quản sự ma ma xoa vai nàng ta:

“Cô nương đừng khóc nữa. Dù sao việc này cũng đã thành. Lão phu nhân còn khen cô nương thật là trầm ổn, dẫu gặp sai sót cũng không rối loạn tay chân, quả thật đã đến tuổi cập kê, khí độ khác hẳn.”

Lời khen ấy khiến tiểu cô nương thôi rơi lệ. Từ lúc mẫu thân gặp nạn, nàng ta chỉ thấy trời như sụp xuống. May thay, bà ngoại đón mẫu thân vào kinh, lại luôn thương nhớ, dạy bảo nàng ta.

Nàng ta ngừng khóc, đôi mắt vẫn đỏ hoe. Quản sự ma ma nhìn nàng ta, nửa đùa nửa thật:

“Chẳng nói đâu xa, cô nương khi rơi lệ, thật khiến người ta thương xót. Đợi đến khi cập kê gả chồng, không biết sẽ khiến hôn phu yêu chiều đến mức nào. Dẫu là sắt đá, gặp giọt lệ này cũng hóa thành tơ lụa mềm thôi.”

Đỗ Nhuận Thanh nghe xong, mặt thoắt đỏ bừng.

“Ma ma nói gì thế? Ta mới bao lớn chứ?”

Quản sự ma ma lại cười càng thêm tươi: “Chẳng lẽ cô nương không có người nào để trong lòng?”

Một câu này hỏi trúng chỗ, khiến mặt mày Đỗ Nhuận Thanh rối loạn, cúi gằm đầu, ngay cả cổ cũng đỏ bừng.

Quản sự ma ma cười đến không dứt, rồi thôi không trêu ghẹo nữa, trái lại khẽ thở dài:

“Cô nương như vậy mới là nữ nhi khuôn phép. Còn xem vị trưởng tỷ kia, thủ tiết không chịu tái giá, cha mẹ mất rồi, vốn nên nghe lời thúc phụ, ngược lại cứ cùng thúc phụ tranh chấp chẳng thôi. Nữ tử sao có thể như thế?

“Cô gia cũng thế, việc hôn nhân trọng đại như vậy, lại để chất nữ nói một câu liền gác lại, chẳng phải trò cười hay sao? Thiệu gia muốn định thân, há lại là chuyện để đem ra đùa giỡn?”

Nói rồi, quản sự ma ma nhớ lại cảnh trên xe ngựa lúc trước. Khi Vạn lão phu nhân nhắc đến chuyện hôn sự, Đỗ cô gia còn lưỡng lự, nói sợ việc này khó tránh có chỗ bất ổn.

Lão phu nhân nghe vậy liền mắng thẳng:

“Ngươi cũng thật hồ đồ! Thiệu gia là ai mà ngươi dám nói gạt đi thì gạt đi? Chẳng phải là công khai tát vào mặt người ta sao? Để toàn kinh thành chê cười ngươi dám vả vào Thiệu gia ư?”

Khi ấy, sắc mặt Đỗ cô gia trắng bệch, vội vàng giải thích không phải ý này. Nhưng lão phu nhân nào còn để ý, trực tiếp sai người lấy bút mực chuẩn bị sẵn, buộc ông ta phải viết danh thiếp, rồi xe ngựa lập tức đưa thẳng đến Tông Nhân Phủ.

Việc này mới coi như khó nhọc hoàn thành.

Nghe đến đây, Đỗ Nhuận Thanh thoáng ngẩn người, lại thấp giọng hỏi quản sự ma ma: “Vậy nếu đại tỷ còn muốn gây chuyện thì sao?”

Quản sự ma ma liền cười: “Lão phu nhân nó rồii, đại cô nương nhà ngươi có bản lĩnh đến đâu, chẳng lẽ có thể vào tận trong cung mà đoạt lại danh thiếp đã dâng hay sao? Hay là nàng có thể khiến cha nàng sống lại, để che chở cho nàng?”

Bà ta cười lạnh một tiếng: “Đó là điều không thể. Nhiều lắm, nàng cũng chỉ có thể ở trong phủ khóc lóc đôi phen, làm ầm vài trận. Nhưng xoay trời chuyển đất thì không thể nào. Đây là kinh thành, chẳng phải nơi nàng muốn quấy trời đạp đất là được.”

Nói rồi, quản sự ma ma cáo từ. Đỗ Nhuận Thanh tiễn bà ta ra ngoài, rồi cố ý ghé tai nghe động tĩnh bên Tây lộ viện.

Tây viện vẫn im ắng, yên tĩnh đến mức tựa hồ chẳng hay biết gì.

Đỗ Nhuận Thanh trong lòng vẫn lờ mờ bất an, nhưng nhớ đến lời quản sự ma ma, lại tự trấn an: tỷ tỷ còn có thể làm gì hơn chứ?

*

Tây viện

Thu Lâm ôm cánh tay ngồi trên giường, buồn bực mà rơi lệ. Nàng ấy vốn không muốn khóc thành tiếng để người khác nghe thấy mà chê cười cô nương của mình, nhưng nước mắt cứ thế trào ra, chẳng cách nào ngăn lại.

“Đại lão gia sinh thời đối xử với Nhị lão gia chẳng hề bạc đãi, có việc gì cũng lo cho ông ta, ngay cả mua nhà cũng dành ra một viện tử riêng cho lão. Giờ thì hay rồi đại lão gia vừa mất được mấy năm, ông ta đã dám khi dễ chất nữ của mình đến mức này!”

Nguyễn Cung chỉ khẽ thở dài, đưa khăn cho nàng ấy lau nước mắt. Thu Lâm lại càng tức giận, lẩm bẩm:

“Còn Nhị cô nương nữa, thật nghĩ mình giỏi giang đến thế sao? Giả vờ khóc cũng khéo quá, khó trách trông đến thương tâm thảm thiết, không nghĩ đến Nhị phu nhân lại có thể ngã bể đầu đến thế? Giờ Nhị phu nhân bị thương, chẳng biết nàng ta cùng bà ngoại còn định trách ngược cô nương chúng ta, bảo rằng do chúng ta không chịu thuận ý Nhị lão gia mới thành ra thế cục hôm nay? Có phải hay không còn muốn chúng ta đi đến thương xót an ủi vì bọn họ bị ủy khuất hay không?”

Sắc mặt Nguyễn Cung sa sầm: “Nói đến cùng, vẫn là chúng ta sơ suất.”

Thu Lâm hậm hực: “Đúng vậy, đều tại ngươi! Cô nương bên cạnh chỉ có hai chúng ta, ngươi lại chẳng lo chu toàn cho cô nương. Đầu năm còn thề thốt, nói cô nương nếu tái ngộ lương duyên, chỉ cần yên ổn là chúng ta có thể thành thân. Giờ thì hay rồi, danh thiếp đã dâng vào cung, hôn sự này nào còn là do cô nương định đoạt!”

Nguyễn Cung và Thu Lâm vốn là thanh mai trúc mã, từ nhỏ cha mẹ hai bên đã định sẵn việc hôn phối. Nhưng từ khi Tưởng Tam gia qua đời, Thu Lâm không nỡ để cô nương sống cảnh đơn độc, nên chậm mãi chưa chịu thành thân, chỉ một lòng ở lại hầu hạ.

Khi ấy Nguyễn Cung mới buột miệng nói những lời an ủi kia. Giờ y chỉ đành thở dài: “Đều do ta sai, lỡ lời mà thôi.”

Nhưng việc đã đến nước này, Thu Lâm nghĩ đến tình cảnh hiện giờ lại càng tức giận, nước mắt lại rơi. Nàng ấy tự nhủ không thể khóc thêm nữa, khóc sưng cả mắt chẳng phải càng khiến người ta chê cười sao?

Vội vàng lau khô nước mắt, nàng ấy bước xuống giường: “Cô nương trong phòng vùi đầu đọc sách cổ, cả ngày chưa ăn gì. Dù sao cũng phải ăn chút lót dạ.”

Nói đoạn, nàng ấy bưng khay điểm tâm đi tới phòng Đỗ Linh Tĩnh:

“Cô nương, ăn chút gì đi. Đây là bánh gạo trắng ta nhờ Nguyễn Cung mua từ chùa Bạch Tháp về, vốn dĩ cô nương trước nay vẫn ưa thích nhất mà.”

Nhưng vào phòng, nàng ấy chỉ thấy cô nương ngồi dưới cửa sổ, tay lật giở sách cổ. Ánh sáng rọi xuống tờ giấy Tuyên Thành trải dưới bàn, mấy chữ mơ hồ hiện ra, bị đầu bút trúc trong tay nàng khẽ gõ lệch đi.

Cô nương không đáp, mãi đến khi nàng ấy đưa bánh đến gần, Đỗ Linh Tĩnh mới ngẩng đầu, liếc thoáng sắc trời ngoài cửa sổ.

“Xương Bồ từ Thương Châu đã trở lại chưa?”

Thanh âm nàng khàn khàn, Thu Lâm chẳng có tin tức, chỉ lắc đầu: “Cô nương ăn chút trước đi. Có lẽ hắn trên đường bị chậm trễ.”

Đỗ Linh Tĩnh không hề động đến bánh gạo trắng, chỉ nhìn sắc trời, mày nhíu chặt:

“Hôm nay đã là ngày thứ ba.”

Hôm nay đã là mười hai tháng tám, cũng là ngày thứ ba Xương Bồ đi Thương Châu tìm Hỗ Đình Quân. Quá thêm một ngày nữa, chính là Tết Trung thu.

Thu Lâm sao lại không rõ? Trung thu vừa qua, trong cung ắt sẽ hạ thánh chỉ tứ hôn. Nhưng Xương Bồ đến nay vẫn chưa về.

Đúng lúc ấy, Nguyễn Cung vội vã bước tới trước cửa:

“Cô nương, Xương Bồ đã trở lại!”

Đỗ Linh Tĩnh lập tức gọi Xương Bồ vào.

Xương Bồ mới xuống ngựa, chân còn run rẩy chưa đứng vững. Đỗ Linh Tĩnh hỏi ngay:

“Có mang tin tức gì về không?”

Hắn ta thở hổn hển, lắc đầu lia lịa:

“Không… cô nương, không gửi đi được…”

Đỗ Linh Tĩnh khẽ nhíu mày, Nguyễn Cung nhịn không được đá cho hắn ta một cước:

“Ngươi làm sao vậy? Mau nói rõ!”

Thu Lâm thấy hắn môi khô lưỡi khát, liền rót cho một chén nước, giục: “Được rồi, đừng để cô nương phải chờ, mau nói!”

Xương Bồ uống xong, hơi thở dần ổn lại, mới cất lời:

“Cô nương… Hỗ gia xảy ra chuyện rồi!”

Hắn ta kể, mình vừa đến Thương Châu liền tìm tới phủ Nhị nương tử nhà họ Hỗ. Nào ngờ, Hỗ Nhị nương cùng phu quân Quách Đình đã ra ngoài từ một tháng trước, đi rồi mãi chẳng trở về. Hai người cũng chẳng nói đi đâu, mới đầu nửa tháng thì còn có thư báo bình an, về sau thì hoàn toàn bặt vô âm tín.

Phu thê Hỗ Đình Quân đều m·ất t·ích, tin tức tự nhiên chẳng thể gửi đi được.

Xương Bồ chậm trễ trở về, là bởi hắn ta lại ghé qua phủ Hỗ đại gia dò hỏi.

Hỗ Đình Lan vốn nhậm chức tại kinh thành, mấy tháng trước bị điều đến trấn Định làm công vụ.

Đỗ Linh Tĩnh trầm giọng hỏi: “Trong phủ Hỗ đại ca thế nào?”

Nghe vậy, Xương Bồ lại lắc đầu:

“Phủ Hỗ đại gia người đi nhà trống, từ hơn tháng trước đã dọn đi. Theo lời người ở quê nhà, Hỗ gia đi rất vội, cơ hồ chỉ trong một đêm mà biến mất không còn tung tích!”

Hỗ gia huynh muội, cả nhà đều m·ất t·ích, lại còn m·ất t·ích chẳng để lại manh mối nào.

Trong phòng, không khí như đông cứng lại.

Thiệu Bá Cử và Hỗ Đình Lan giao tình mười mấy năm, vào sinh ra tử, tình như thủ túc, người trong kinh đều biết.

Giờ đây Hỗ gia toàn bộ mất tích, hắn ta còn tâm trí nào mà bàn chuyện tục huyền nữa?

Thu Lâm nhìn thấy Đỗ Linh Tĩnh im lặng trầm tư, không rõ trong lòng nàng đang toan tính điều gì.

Chợt, Đỗ Linh Tĩnh ngẩng đầu, dứt khoát bảo Nguyễn Cung:

“Ngươi lấy danh thiếp của ta, đi mời Thiệu Thám Hoa đến Chẩm Nguyệt Lâu gặp mặt.”

*

Ngày mười ba tháng tám, chỉ còn một ngày nữa là đến hội Trung thu, khắp kinh thành tràn ngập bánh nguyệt và hoa quả tế nguyệt.

Đường phố chen chúc người qua lại, đặc biệt là trước Chẩm Nguyệt Lâu nơi chợ đèn hoa, lồng đèn lớn treo cao, sáng rực rỡ, người trong thành ùn ùn kéo đến như nước.

Là tửu lâu lớn nhất trên phố chợ đèn, Chẩm Nguyệt Lâu khách khứa chật ních, dưới ánh đèn treo cao sáng rực như ban ngày, người ra kẻ vào tấp nập.

Đỗ Linh Tĩnh đã nhiều năm chưa từng đặt chân đến chốn ồn ã như thế, vừa đến đã bị dòng người chen lấn chẳng thể tiến vào, chỉ nghe đám khách trà xung quanh bàn tán rôm rả:

“Tà môn, hôm nay Chẩm Nguyệt Lâu thật tà môn! Lúc đầu ta thấy Thiệu Thám hoa đến, cũng chẳng lạ. Nhưng các ngươi đoán xem ta vừa thấy ai?”

Mọi người lập tức ghé sát, chỉ thấy kẻ kia tròn mắt, bộ dạng vẫn chưa tin vào chính mình:

“Vừa rồi, ta thấy Vĩnh Định hầu, Lục hầu gia!”

Một câu ấy khiến cả đám xôn xao.

Ai chẳng biết hiện nay trong kinh, vì tranh vị trí Thái tử, hai nhà này vốn như nước với lửa. Ngoài cung cấm, ai có thể khiến hai người cùng xuất hiện ở một chỗ?

Có kẻ nghi ngờ: “Không thể nào. Thiệu thị đã có mặt, Lục hầu gia tuyệt nhiên sẽ không tới. Ngươi nhất định hoa mắt rồi? Chẩm Nguyệt Lâu há có thể diện lớn như thế?”

Quả thật, ngoài cửa chỉ thấy kiệu của Thiệu thị, nào có xe ngựa hầu phủ.

Đỗ Linh Tĩnh cũng chẳng bận tâm Lục hầu gia có đến hay không, chỉ cần nghe chắc chắn Thiệu Bá Cử đã có mặt, trong lòng liền quyết định.

Nàng men theo dòng người trong đại sảnh, thấy cầu thang giữa đã đông nghẹt, bèn vòng qua góc tối để lên lầu.

Nơi ấy vắng vẻ hơn, tiếng ồn ào cũng bị dãy đèn lớn che bớt. Nguyễn Cung đi trước mở đường, nàng nối gót bước lên tầng ba.

Khi đi ngang tầng hai, nàng còn cố ý đưa mắt nhìn về hành lang, đề phòng va phải người.

Không ngờ vừa thu lại ánh mắtt, mới bước lên một bậc, thì từ hành lang lao tới hai thiếu niên đang giằng co. Cả hai xô tới, đẩy lui khiến nàng loạng choạng lùi về phía sau. Cả người liền mất thăng bằng, dường như muốn ngã xuống đến nơi.

Nàng hoảng hốt hít mạnh một hơi, vội đưa tay tìm lan can, thì phía sau chợt nổi một cơn gió mạnh.

Một người bước nhanh tới, chưa kịp thấy rõ, đã đỡ lấy nàng, bàn tay vững chãi đặt nơi eo.

Trong Chẩm Nguyệt Lâu vẫn ồn ào, tiếng nhạc tiếng người hòa lẫn, đèn hoa rực sáng chiếu khắp lầu cao.

Đỗ Linh Tĩnh quay đầu nhìn, thấy người vừa đỡ mình.

Nam nhân mày rậm hơi nhíu lại, dáng đứng hiên ngang, trên sống mũi cao thẳng có hai vết sẹo mờ. Đồng tử đen thẳm như mực thạch, lúc này đôi môi đang mím chặt.

“Đau chân sao?” Giọng nói khàn khàn, sắc bén.

Đỗ Linh Tĩnh chưa từng nghe thấy giọng nói như thế. Khuôn mặt kia, trong thoáng chốc nàng ngỡ mình từng gặp, nhưng nghĩ lại thì không nhớ ra.

Nàng còn chưa kịp đáp, bàn tay đặt ở eo khẽ siết, mang theo hơi ấm, ẩn chứa sức mạnh cùng sự chế ngự, đồng thời lại thấp thoáng một tia thân mật khó nói.

Như thể giữa nàng và hắn, quan hệ không đơn thuần chỉ dừng lại ở đây.

Đỗ Linh Tĩnh ngẩn ngơ, vội thoát khỏi tay người này.

Nam nhân đứng ngay bậc thang phía dưới nàng, cách nàng một khoảng ngắn, ánh đèn hắt xuống, trong đôi mắt tối sâu thoáng có một tia dao động khó nhận ra.

Thấy nàng không đáp, hắn chỉ liếc nhìn, giọng khàn nhẹ cất lên:

“Chẩm Nguyệt Lâu mấy hôm nay quá đông, đi lại sẽ bất tiện.” Dừng một chút, ánh mắt khẽ dừng trên hàng mi nàng, giọng càng trầm thấp: “Nơi này không phải chốn tốt, chớ nên lưu lại.”

Trong tiếng ồn ào và tiếng nhạc huyên náo, dưới ánh đèn đỏ lay động, phản chiếu trong đôi mắt đen sâu thẳm của hắn một tia nhu hòa chợt thoáng qua, như chờ đợi nàng sẽ nghe lời khuyên của mình mà quay gót rời đi, không cần gặp Thiệu Bá Cử nữa.

Đỗ Linh Tĩnh hơi hoảng hốt, rồi chợt chau mày:

“Xin thứ cho, ta có quen biết các hạ chăng?”

Chương trước Chương tiếp
Vietwriter Bongdaso Bongdapro Keonhacaivip THABET
Loading...