Ba mươi phút trước.
Ngay khi Thiệu Bá Cử vừa rời khỏi Chẩm Nguyệt Lâu, thì đường đệ hắn ta, Thiệu Ngũ Hưng, đã dẫn người lùng sục quanh Tích Thủy Đàm ở sườn tây. Không chỉ khu rừng, ngay cả những hộ dân quanh đó cũng bị âm thầm dò xét.
May thay Xương Bồ nhanh chân, trước khi thuộc hạ Thiệu thị phát hiện, đã như con mèo thoát thân chạy ra.
Lúc này hắn ta trở lại Chẩm Nguyệt Lâu, đem mọi việc bẩm rõ cùng Đỗ Linh Tĩnh:
“Cô nương, tiểu nhân thấy sắc mặt Thiệu Ngũ Hưng khẩn trương dị thường, hệt như muốn đào ba thước đất, quyết khai quật bằng được vật gì đó lên.”
Đỗ Linh Tĩnh khẽ lắc đầu.
Chỗ đó vốn không có gì cả. Chính nàng đã nói thẳng với huynh đệ Thiệu thị nơi đó trống không, chẳng thấy có chôn vật gì.
Ấy vậy mà Thiệu thị vẫn khăng khăng một mực, rốt cuộc là cố chấp đến mức nào?
Huynh muội Hỗ gia đã xảy ra chuyện gì, nàng còn chưa rõ. Chỉ là Nguyễn Cung khẽ nhắc nhở một câu:
“Cô nương, cách Trung thu chỉ còn một ngày.”
Qua Trung thu, thánh chỉ tứ hôn tất sẽ ban xuống.
Đỗ Linh Tĩnh gật đầu, Nguyễn Cung lại không hiểu hết thâm ý trong mắt nàng.
Trong khi ấy, trong Chẩm Nguyệt Lâu, khách trà càng lúc càng bàn tán sôi nổi.
“Thiệu thị kết liên hôn với con gái duy nhất của Đỗ các lão, còn Vĩnh Định hầu phủ tất nhiên phải cưới thiên kim thế gia. Không biết là nhà hộ Đỗ có giúp ích gì được Thiệu thị, hay là tiểu thư quý môn kia sẽ trợ Lục hầu gia như hổ thêm cánh?”
“Vậy rốt cuộc hầu gia muốn cưới thiên kim nhà nào đây?”
“Cứ xem nhà nào chịu hết lòng phò trợ hầu gia thôi,” người nọ hạ thấp giọng: “áp đảo được cả Thiệu thị lẫn Đỗ gia mới đáng kể.”
Nhưng biết thì cũng chỉ biết đến đấy thôi, ai cũng không có thông tin xác thực. Có người bèn đưa ra ý kiến:
“Thế nào, hay là đến phường Thiên Hưng dạo một vòng, đặt chút tiền cược đi?”
Lời vừa thốt, cả đám đã lục lọi bên hông tìm túi tiền.
“Phải đặt thế nào mới thắng đây?”
“Cờ bạc thì vốn có thắng có thua,”một kẻ tinh ranh sự đời đứng ra cười cợt: “muốn chắc ăn, chẳng cần nghĩ, cứ đặt cửa Thiệu thị cùng Đỗ gia liên hôn là xong.”
Người ấy lại nói thêm: “Nghe đâu việc này vốn do Vạn lão phu nhân bên Cố gia làm mối. Vạn lão phu nhân các ngươi hẳn cũng nghe rồi. Năm xưa Hoàng thượng từng ban hôn cho Lĩnh Nam đại tộc họ Lưu và Chương gia, vốn cách xa như trời với đất, tám sào cũng với chẳng tới, thế mà chính tay Vạn lão phu nhân giật dây. Chương gia tuy chức cao nhưng xuất thân hàn môn, không có chỗ dựa; còn Lưu thị thì chiếm cứ một phương, song trong kinh lại không có thế lực. Vậy mà Vạn lão phu nhân có thể kéo hai nhà ấy lại cùng nhau, lại còn xin được thánh chỉ tứ hôn. Những năm gần đây, trong chốn quyền quý kinh thành, Vạn lão phu nhân mới thật sự là Nguyệt Lão trong các Nguyệt Lão.”
Người kia nói thêm: “Thiệu thị cùng Đỗ gia, cũng là bút tích của vị lão phu nhân ấy. Các ngươi thử nghĩ mà xem, có thể sai được sao?”
Mọi người vừa nghe, liền động lòng, tiền trong túi như như bị rung lên. Nhưng cũng có kẻ chần chừ: nếu ai nấy đều đặt giống nhau, thắng rồi cũng chẳng được bao nhiêu.
Người nọ cười, nói: “Lời này quả có lý. Cho nên, nếu chẳng muốn chỉ cầu hòa, muốn thêm phần k*ch th*ch, thì cứ đặt vào Lục hầu gia. Cược xem năm nay hầu gia có cưới vợ hay không. Nếu gan dạ hơn nữa, trực tiếp đặt xem hầu gia cưới quý nữ nhà nào. Nếu thắng, tất một vốn vạn lời!”
Mỗi năm đến Trung thu, số người đặt cửa vào Lục hầu gia nhiều vô kể. Nhưng hầu phu nhân cho đến nay vẫn chưa từng xuất hiện. Năm nay đến giờ cũng chẳng nghe chút tin tức, thật khó đoán định.
Bỗng có người tung ra năm trăm lượng, cược rằng năm nay hầu gia tất cưới vợ, lập tức khiến cả đám xôn xao.
Lại có kẻ hỏi: “Vậy ngoài chuyện hầu gia cưới vợ, còn có trò nào càng k*ch th*ch hơn không?”
Người nọ đáp ngay: “Có chứ! Vẫn là chuyện Thiệu gia cùng Đỗ gia. Đừng đặt liên hôn thành, mà đặt ngược lại! Ai dám cược hai nhà không thành thân, ấy mới là liều.”
Lời vừa thốt ra, cả sảnh phá lên cười.
Xương Bồ nóng lòng, liền moi từ giày ra mấy mảnh bạc vụn, gom lại đưa tới trước mặt Đỗ Linh Tĩnh.
Nàng vội ngăn: “Ngươi đứng yên đó, đừng đưa lên.”
Xương Bồ nắm chặt tay, hăng hái nói: “Tiểu nhân gia sản chỉ có bấy nhiêu, cũng muốn đặt một phen!”
Nguyễn Cung tức thì đá cho hắn ta một cước: “Thằng nhãi này dám bài bạc? Lại còn giở trò trước mặt cô nương?”
Xương Bồ vội che mông, lí nhí: “Tiểu nhân chẳng phải muốn vì cô nương mà thêm chí khí sao? Tiểu nhân đem cả gia sản đặt cược, áp ngược! Cá Thiệu thị cưới không thành cô nương!”
Hắn ta lại thêm một câu: “Vì để cô nương không bị người cười nhạo, số bạc này có vứt xuống sông, tiểu nhân cũng cam lòng!”
Nguyễn Cung càng tức, lại muốn đá thêm một cước, suýt nữa hất hắn ta lăn quay.
“Tên tiểu tử này, ngươi còn dám nói nhăng nói cuội?”
Nhưng chưa kịp quát xong, đã nghe giọng cô nương cất lên:
“Ngươi cũng thay ta đặt một phần đi.”
“Cô nương?” Nguyễn Cung ngỡ chính mình nghe lầm.
Xương Bồ thì nhảy dựng: “Cô nương muốn đặt bao nhiêu?”
Đỗ Linh Tĩnh trầm ngâm: “Đặt nhiều nhất là năm trăm lượng, đúng không?”
Xương Bồ gật đầu như giã tỏi.
“Vậy thì ta đặt năm trăm lượng, đặt ngược.”
— Năm trăm lượng! Nguyễn Cung sững sờ, nghẹn lời.
Cô nương nhà mình vốn là người đọc sách, xưa nay chẳng hề dính líu đến mấy trò tầm thường này. Vậy mà nay vừa ra tay, liền cược hẳn năm trăm lượng!
Xương Bồ mặc kệ ánh mắt kinh hãi của Nguyễn Cung, hưng phấn đến mức chỉ hận không thể lập tức chạy ngay tới phường Thiên Hưng.
“Cô nương cũng cùng ta đánh bạc!”
Thanh âm hắn ta hơi lớn.
Đỗ Linh Tĩnh khẽ ho một tiếng, lời ấy nghe thật chẳng hay, bèn sửa lại:
“Là Bác Tài Sơn.”
Đôi mắt Xương Bồ sáng rực: “Đúng đúng, vẫn là cô nương văn nhã. Tiểu nhân đây liền thay cô nương đi Bác Tài Sơn* một phen!”
*Một kiểu cược Tài Xỉu.
Đỗ Linh Tĩnh khẽ mỉm cười.
Nguyễn Cung nghiến răng nghiến lợi – cô nương nhà mình đúng là đã bị thằng nhóc này làm cho học hư rồi sao!
*
Từ chợ hoa đăng kéo dài khắp phố Sùng Văn Môn, ngọn đèn dầu sáng rực, cảnh tượng náo nhiệt phi phàm. Đặc biệt là nơi Đông Nam, bên Minh Khê phường, phía nam bờ sông Bào Tử, sóng nước lấp loáng phản chiếu ánh đèn dầu nhấp nhô, những tia sáng li ti như vảy cá lấp lánh, ven bờ lại tụ đầy người.
Đỗ Nhuận Thanh hiếm khi cũng mang theo nha hoàn ra phố. Nàng xưa nay đều ở trong phủ hầu hạ mẫu thân, ít có khi được thảnh thơi dạo chơi.
Lúc này, một đường đi tới gần bờ sông Bào Tử, khắp phố xôn xao bàn luận chuyện tứ hôn Trung thu. Chớ nói chi Thiên Hưng phường, ngay cả tiểu sòng bạc ven bờ Bào Tử cũng đã mở sòng, đặt cửa việc liên hôn của các nhà quyền quý.
“Thật thế sao?” nàng ta không khỏi hỏi.
Nha hoàn Nhược Tuyết đáp ngay: “Chuyện này không thể tin, năm nào chẳng có kẻ đặt cược hầu gia cưới vợ, cuối cùng chẳng phải đều hoài công cả sao?”
Lời ấy cũng không sai. Nhưng rồi nàng ta lại nói thêm: “Ngược lại, cược đại cô nương với Thiệu Thám Hoa thì nhiều hơn. Người sáng mắt đều thấy rõ, việc này chắc chắn thành.”
Tự hôm đại tỷ đột ngột về kinh, trong nhà đã loạn đến nỗi người ngã ngựa đổ. Nhưng nay nghe người ngoài ai ai cũng tin chắc như vậy, trong lòng nàng ta mới khẽ thở phào.
Nàng ta bảo Nhược Tuyết đi thêm vài bước về phía bờ hồ. Lập tức có kẻ bán hàng rong xông tới.
“Cô nương, có phải muốn thả hoa đăng cầu nguyện? Năm nay chúng ta thỉnh đại sư khai quang, hoa đăng này linh nghiệm nhất! Chỉ cần thành tâm, trong lòng niệm tên người mình mong ước, tơ hồng sẽ trôi thẳng đến tay người ấy, chuẩn không sai!”
Tiểu nhị rao hàng hết sức, Nhược Tuyết thì trợn mắt lườm: “Nói hay lắm! Hoa đăng làm sao trôi lên tận Ngân Hà? Chẳng phải lát nữa cũng bị bọn trẻ con vớt đi chơi thôi sao?”
Người bán rong nghẹn họng, toan quay đi.
Đỗ Nhuận Thanh gọi lại: “Lấy tiền ra. Ta mua một trản hoa đăng.”
Nhược Tuyết ngẩn người, còn kẻ bán rong thì cười đến rách cả khóe miệng, vội chọn một chiếc tinh xảo nhất dâng cho Đỗ Nhuận Thanh.
“Cô nương chỉ cần trong lòng niệm tên, tơ hồng ắt sẽ đưa đến tay người trong mộng!”
Đỗ Nhuận Thanh đón lấy hoa đăng, ánh sáng phản chiếu khiến gương mặt nàng khẽ ửng hồng. Nàng ta khẽ cắn môi, chậm rãi bước ra bờ sông, nhắm mắt lại, một lát sau mới đưa ngón tay khẽ đẩy. Hoa đăng theo làn nước trôi đi, như ngôi sao nhỏ phiêu lạc giữa dải ngân hà.
Trên đường hồi phủ, Nhược Tuyết nhìn thấy sắc diện chủ tử hãy còn ửng đỏ chưa tan, liền thấp giọng cười khẽ: “Cô nương cũng thật tin lời gã bán rong kia sao?”
Đỗ Nhuận Thanh mặt càng đỏ bừng, vừa định mở miệng, đã thấy người hầu của mẫu thân tìm đến.
“Có chuyện gì?”
Kẻ kia thấp giọng bẩm: “Nhị cô nương, vừa rồi tiểu nhân theo sau đại cô nương, thấy người đi vào Chẩm Nguyệt Lâu... gặp Thiệu Thám Hoa.”
Đỗ Nhuận Thanh nghe xong cả kinh.
Đại tỷ rõ ràng không muốn gả cho Thiệu Bá Cử, sao lại đi gặp người kia? Chẳng lẽ muốn sinh biến?
Nàng ta vội vã dặn: “Hãy đi bẩm cho phụ thân... không, khoan!” nàng ta chợt đổi giọng – “Ngươi mau đến Cố phủ, báo tin cho ngoại tổ mẫu củai ta!”
*
Hoàng Hoa phường, Cố phủ. Chỉ cách Đỗ gia phường Thành Khánh một con phố Sùng Văn Môn.
Khi gã sai vặt đến nơi, trong phủ đang rộn rã tiếng cười, bởi Cố phu nhân Lương thị vừa từ tiệc xa nhà trở về, mang theo tin mừng bẩm lại với Vạn lão phu nhân.
“... Tế Nam Hoàng thị, Thuận Đức Thẩm thị đều đã gửi lễ vật tới. Họ nói nữ nhi trong nhà vốn không hiểu quy củ, sau này khó mà gả tốt, chi bằng đưa đến phủ ta, theo mẫu thân mở rộng tầm mắt. Còn về chi phí, dĩ nhiên chẳng cần chúng ta nhọc lòng.”
Nghe vậy, Vạn lão phu nhân khẽ lắc đầu, song nơi khóe mắt nếp cười vẫn hằn sâu.
“Thật là, từ năm ngoái đã có người muốn gửi cô nương đến vườn ta, ta còn lo liệu không xuể, nay lại càng nhiều.”
Lương thị tiến lên, cung kính bóp vai cho bà, cười nói: “Bọn họ nơi nào dạy dỗ được cô nương tử tế? Nếu luận chuyện nuôi dạy khuê nữ, tất phải nhờ mẫu thân mới xứng.”
Vạn lão phu nhân lại lắc đầu: “Ta chẳng qua so với bọn họ khéo lo hơn đôi chút. Nhưng chẳng phải cuối cùng họ cũng muốn mượn tay ta, đưa con gái gả vào nhà quyền quý đó sao?”
Lương thị vội phụ họa, rồi hỏi: “Vậy có cần nhận những cô nương kia vào kinh không?”
Vạn lão phu nhân chậm rãi gật đầu: “Tất nhiên là phải nhận. Chỉ là... hãy chờ một chút.”
“Mẫu thân muốn chờ đến khi nào?”
Vạn lão phu nhân rời tay nàng, khép mắt lại, chậm rãi nói:
“Chờ đến sau Trung thu, khi Hoàng thượng ban thánh chỉ tứ hôn giữa Thiệu thị và Đỗ gia.”
Lương thị lập tức đã hiểu.
Liên hôn giữa hai nhà vốn nhờ thánh chỉ tứ hôn mà định, một khi việc thành, tất sẽ có thêm nhiều nhà khác muốn đưa cô nương vào Cố phủ. Ai ai cũng tính toán, cân nhắc xem có thể dâng cho Cố gia, cho lão phu nhân được lợi lộc gì.
Nhà cao cửa rộng kết thân, xưa nay vốn chẳng phải vì duyên lành đôi lứa.
Đang lúc trò chuyện, gã sai vặt được Đỗ Nhuận Thanh phái tới vội vã bẩm báo. So với sự hấp tấp của hắn, Vạn lão phu nhân chỉ gật đầu, chẳng hề để vào tâm.
Thấy hắn ta ngẩn ngơ, bà mới mở miệng:
“Trở về nói với Thanh Nhi, cho dù có gặp Thiệu Bá Cử thì đã sao? Thiệu gia đã muốn cưới, chẳng phải chỉ vì nàng nói dăm ba câu với Thiệu Bá Cử mà có thể thay đổi. Tên đã lên dây, thế tất phải phát. Hôn sự này, thành cũng là thành, không thành cũng vẫn phải thành. Không phải thứ nàng có thể ngăn được.”
Gã sai vặt ghi nhớ lời, vội quay về Đỗ phủ.
Vạn lão phu nhân để con dâu hầu hạ, uống một ngụm trà, rồi lắc đầu than:
“Làm nữ nhân, sợ nhất chính là đọc quá nhiều sách. Mấy quyển sách kia vốn do nam nhân viết, viết cũng chỉ để dạy nam nhân. Nữ nhân mà đọc được, lại cứ ngỡ mình cũng có thể làm chủ đời mình, đâu biết như vậy chỉ là hại thân. Nghĩ rằng bản thân vô sở bất năng, kỳ thực là vọng tưởng.”
Lương thị vội vàng cúi mình nghe lời dạy bảo.
Bà chẳng buồn gọi con dâu đứng dậy, chỉ đưa tay về phía mấy quyển sách bày trước mặt, lạnh nhạt nói:
“Từ ngày mai, học đường của mấy cô nương trong nhà, hãy cắt bỏ phân nửa việc đọc sách. Thứ còn giữ lại, cũng chỉ cần học qua 《Nữ huấn》, 《Nữ giới》. Để các nàng biết lo toan việc nhà, học cách san sẻ cùng phụ mẫu, phu quân. So với việc dùi mài bút nghiên, điều ấy mới thực có ích.”
Lương thị không dám cãi một lời, càng cúi rạp xuống: “Mẫu thân dạy rất phải.”
Bà ta lại dè dặt hỏi: “Còn về đại cô nương nhà Đỗ gia... có cần phải để tâm thêm phần nào không?”
Vạn lão phu nhân phẩy tay:
“Không cần. Đây là kinh thành. Nàng ta có làm ầm ĩ, cũng chẳng xoay trời lật đất được.”
Vạn lão phu nhân sau khi được con dâu hầu hạ, liền sớm đi nghỉ.
Nhưng nửa đêm, kinh thành bỗng nổi gió lớn, cuồng phong quật vào song cửa, rung lên bần bật. Người già vốn ngủ nông, Vạn lão phu nhân bị kinh động, Lương thị vội gọi tôi tớ chạy đi trong ngoài tìm vật đè chặt cửa sổ. Trằn trọc hơn một canh giờ, khắp nơi mới dần yên tĩnh, Vạn lão phu nhân lúc ấy mới chợp mắt được.
Một giấc ấy, sáng sớm hôm sau bà liền tỉnh muộn hơn thường lệ.
Ngày mai chính là Trung thu.
Lương thị đã chuẩn bị xong đồ ăn, Vạn lão phu nhân nhợt nhạt nhấp hai ngụm trà, vừa ngồi vào bàn thì quản ma ma đã hoảng hốt chạy vào.
“Ngươi làm sao mà rối loạn thế? Chẳng lẽ Hoàng thượng sốt ruột, chưa tới Trung thu đã hạ chỉ tứ hôn rồi sao?”
Lời nói tuy hoang đường, nhưng cũng chẳng phải không có khả năng.
Chỉ thấy quản ma ma sắc mặt cực kỳ khó coi, vội vàng thưa: “Lão phu nhân, một đêm qua, ngoài thành lan truyền khắp nơi, nói rằng Thiệu thị giết người!”
Vạn lão phu nhân nhíu mày: “Đồn đại vô căn cứ từ đâu ra?”
Quản ma ma cũng chẳng rõ nguồn gốc, chỉ biết rằng đêm qua bắt đầu rộ lên: “Huynh muội Hỗ gia đã mất tích hơn một tháng. Đại công tử Hỗ gia vốn xuất thân tiến sĩ, mất tích lâu như thế, vậy mà trong kinh chẳng ai hay biết. Giờ đây lại có tin truyền rằng đây là bút tích của Thiệu thị. Người Hỗ gia e rằng đã bị hại, mà kẻ hạ độc thủ chính là Thiệu gia.”
Vạn lão phu nhân nhíu mày càng chặt.
Quản ma ma nói không rõ nguồn, nhưng Lương thị thấp giọng hỏi: “Nương, chẳng lẽ là đại cô nương bên Đỗ gia tung tin này?”
Hiện tại, người duy nhất không muốn thánh chỉ tứ hôn ban xuống, chính là nàng.
Vạn lão phu nhân sững lại, rồi bật cười nhạt:
“Một cô nương nhỏ nhoi, há có thể chấn động cả kinh thành? Lời đồn trên phố, sao có thể quy hết về nàng? Đừng tự cho là đúng.”
*
Phường Thành Khánh, Đỗ phủ.
Thu Lâm sai tiểu nha hoàn Ngải Diệp ra ngoài thăm dò, lúc trở về liền bẩm:
“Cô nương, hiện nay lời đồn đã lan khắp nơi.”
Nàng nói: “Có người tận mắt thấy hôm qua người Thiệu gia bao vây Tích Thủy Đàm phía tây, chẳng rõ đang đào bới thứ gì. Có kẻ bảo là vật ô uế, có kẻ nói là chứng cứ, thậm chí còn có lời đồn... là xác chết! Tin tức mỗi lúc một quái dị. Một chiêu này của cô nương thật sự lợi hại, chúng ta không lấy được danh thiếp, nhưng lại khiến Thiệu Bá Cử mất thánh sủng trước mặt Hoàng thượng, bị rút đi một bước, há chẳng phải cũng như nhau?”
Thu Lâm càng nói càng phấn khởi. Nhưng Nguyễn Cung vốn thận trọng, chợt nhìn về phía cô nương:
“Song, cho dù lời đồn trên phố có xôn xao thế nào, nếu không có chứng cứ, liệu có thể thật sự làm gì được Thiệu thị sao?”
Huynh muội Hỗ gia mất tích hơn một tháng, vậy mà Thiệu thị vẫn che giấu được, khiến triều đình chẳng ai hay biết. Thì nay, một chút lời đồn nhảm, làm sao có thể lung lay địa vị hồng nhân trước mặt thánh nhan của Thiệu Bá Cử?
Nghe y hỏi, Đỗ Linh Tĩnh cũng gật đầu:
“Ta quả thật không có bản lĩnh hạ gục Thám Hoa lang.”
Kinh thành là nơi nào? Là chốn mà ngay cả phụ thân nàng cũng vấp ngã, chìm sâu không dậy nổi. Nàng đương nhiên chẳng có khả năng đó.
Điều nàng mong, chỉ là tự giải thoát, chỉ mong chờ qua đêm Trung thu này, là có thể yên ổn lên đường, sớm ngày trở lại Thanh Châu.
“Có điều,” Đỗ Linh Tĩnh khẽ ngưng lời, trong đầu thoáng hiện bóng dáng nam nhân hôm qua đứng nơi lan can cao lầu ở Chẩm Nguyệt Lâu, thân hình tuấn dật như ngọc, “ở kinh thành này, tự có rất nhiều kẻ muốn nhìn Thiệu Bá Cử ngã xuống.”
“Điều ta có thể làm, chỉ là châm một mồi lửa nhỏ, thổi qua hàng quyền thần, hậu duệ quý tộc ấy mà thôi.”
Lời nàng vừa dứt, ngoài cửa sổ gió bỗng nổi lên, ầm ầm thổi tung cánh cửa khắc hoa vốn khép hờ.
Tích Khánh phường, Vĩnh Định hầu phủ.
Trong tiền viện phòng nghị sự, các phụ tá đã sớm tụ tập đông đủ. Mọi người khó nén hưng phấn, bàn tán về lời đồn vừa bùng nổ đêm qua, kẻ nào cũng tranh nhau lên tiếng, náo động đến nỗi dường như muốn hất tung cả mái hiên.
Đột nhiên bên ngoài có người truyền vào: “Hầu gia tới.”
Tức thì, trong sảnh im bặt. Tất cả đều ngẩng nhìn ra ngoài cửa. Chỉ thấy nam nhân khoác một thân áo gấm màu xanh thẫm, dưới ánh ban mai, từng bước thong dong tiến đến, rồi nhấc chân bước vào.
Chúng phụ tá đồng loạt hành lễ. Hắn chỉ khoát tay: “Chư vị vừa bàn luận chuyện này, ta cũng đã nghe nói.”
Một câu nhạt nhẽo, song đã khiến sự phấn khởi lại bùng lên.
Trong số đó, một phụ tá họ Dư bước lên trước, trầm giọng: “Hầu gia, mặc kệ thật giả ra sao, lần này chính là cơ hội của chúng ta.”
“Mấy năm nay, Thiệu thị nhờ cậy vào thế lực Ung Vương, kết giao triều thần, lại được Đậu các lão che chở. Ngay đến quan lớn ở các địa phương, phần nhiều cũng nghiêng về đảng ấy. Thêm nữa, Hoàng thượng vốn quý trọng văn tài của Thiệu thị, nên thường mảy may dao động trước lời thỉnh cầu của bọn họ. Họ lấy cớ trưởng tử nên là Thái tử, liên tục dâng sớ khuyên lập trữ quân, lại nói Ung Vương hiền lương các thứ, Thiệu thị lại có thanh danh trong giới văn thần, khiến ngôi vị trữ quân này không có lựa chọn thứ hai. Hoàng thượng khó tránh khỏi động lòng.”
Dư phụ tá nói tiếp: “Nhưng nếu lần này chuyện Hỗ thị huynh muội quả thực được minh bạch, thì việc Thiệu Bá Cử thất sủng chỉ là chuyện nhỏ; toàn bộ danh vọng của Thiệu thị, thậm chí cả một đảng của Ung Vương, đều sẽ bị kéo xuống bùn. Hoàng thượng vốn ái tài, sao có thể dung thứ cảnh tượng đường đường một vị tiến sĩ lại bị mưu hại?”
Nói tới đây, y cũng thoáng chần chừ: “Chỉ là... không rõ lời đồn này do ai tung ra, lại nhằm ý gì. Nhưng chúng ta... có nên tra xét một phen chăng?”
Mọi người nghe vậy đều thấp thỏm, ngờ vực chưa dám quyết.
Nhưng chỉ thấy hầu gia khẽ lắc đầu: “Không cần tra.”
Thanh âm khàn khàn, trầm nặng như gió đêm: “Cứ để nàng thở được một chút.”
Lời ấy khiến quần thần càng thêm ngơ ngác, ngươi nhìn ta, ta nhìn ngươi, chẳng ai hiểu rõ ý tứ.
Dư phụ tá lại dè dặt hỏi: “Hầu gia, vậy rốt cuộc chúng ta phải làm thế nào? Có cần thuận theo ý người kia chăng?”
Trong sảnh, không khí lặng như tờ.
Giữa đám đông, nam nhân khoan thai cất lời, bốn chữ vang vọng:
“Khuynh lực tương trợ.”
Duy Hứa Hầu Phu Nhân (Chỉ Nguyện Nàng Là Phu Nhân Hầu Phủ)
Chương 8: Ngọn lửa
Bạn có thể dùng phím mũi tên
hoặc WASD để
lùi/sang chương
